Tài liệu vơ:

Quang-Trung Nguyễn Huệ

 "Mà nay áo vải cờ đào
    Giúp dân dựng nước xiết bao công tŕnh"


Đó là hai câu thơ trong bài "Ai Tư Văn" của Ngọc Hân Công Chúa tán thán công đức người thanh niên áo vải đất Tây Sơn: Nguyễn Huệ.

Cách đây 216 năm, vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Huệ đă chỉ trong ṿng 6 ngày đánh thắng đạo quân tinh nhuệ hơn 20 vạn do tổng đốc lưỡng quảng Tôn Sĩ Nghị lănh đạo. Và trước đó, vào tháng Giêng năm 1785, chỉ trong một ngày quét sạch 1vạn quân giặc Xiêm La (Thái Lan) và đoàn lính đánh thuê phương Tây do Nguyễn Ánh rước vào.

Người thanh niên lừng danh đó được các giáo sĩ Tây phương nể sợ so sánh như một Alexandre Đại Đế, như một Tân Attila Đại Đế trong các chiến trận lừng danh thế giới, và quân Xiêm run sợ coi Nguyễn Huệ như một ông "tướng nhà trời".

Hôm nay chúng ta giở lại trang lịch sử vẻ vang cũ để t́m hiểu người anh hùng đó. Chúng ta tự nghĩ do đâu mà nẩy sinh ra một anh hùng lừng danh trong lịch sử dân tộc? Có phải thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tại ra thời thế? Hay nhờ một nền văn hóa khai phóng của dân tộc hun đúc nên một trang anh liệt với tất cả những đặc tính NHÂN BẢN, NHÂN CHỦ, nét đặc trưng của đất Lĩnh Nam? Chúng tôi sẽ lần lượt tŕnh bày thân thế sự nghiệp, bối cảnh lịch sử trước thời cách mạng Tây Sơn, những chiến công oanh liệt, những nét son về chiến thuật, chiến lược của Nguyễn Huệ và tinh thần khai phóng trong việc xây dựng một xă hội hoàn toàn Việt Nam.

I. Thân thế sự nghiệp:

Theo Quách Tấn, người quê hương B́nh Định cho biết: Ấp Tây Sơn là nơi phát tích của ba anh em nhà anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, cho nên sử gọi ba anh em là Nhà Tây Sơn.

Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn ho. Hồ, gịng giơi Hồ Quư Ly, ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân ḥn Thái Sơn, một ḥn núi nhỏ bên cạnh ḥn Đại Hải, một danh sơn xư. Nghệ.

Họ Hồ theo chân Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp miền Nam đến ông cố của Nguyễn Huệ là đời thứ tư, tên là Hồ Phi Long vào giúp việc nông trại cho nhà ho. Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn). Ông cưới vợ ho. Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Lớn lên Hồ Phi Tiễn thông minh lanh lợi, song sức yếu không cán đáng được việc đồng áng, nên bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn và gặp người vừa ư mới kết nghĩa vợ chồng và cất nhà định cư nơi quê vợ. Bà vợ tên là Nguyễn thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc. Sau đó họ đổi con cái từ ho. Hồ sang ho. Nguyễn của mẹ. V́ vậy đứa con từ lúc sơ sinh được cải qua họ mẹ là Nguyễn Phi Phúc. Lớn lên ông Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và trở nên mỗi ngày mỗi giàu có. ChợKiên Mỹ trở thành thị trấn Kiên Mỹ và ông Phúc trở thành một phú thương có uy tín nhất trong vùng. Ông Phúc có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ (theo các giáo sĩ Tây phương th́ Nguyễn Phi Phúc có 7 người con, Nguyễn Nhạc là anh hai, Nguyễn Huệ thứ bẩy, thua Nguyễn Nhạc đến 10-15 tuổi. Nguyễn Lữ sau cùng thứ tám, nhỏ hơn Nguyễn Huệ 1 tuổi, ở giữa là các chị gái của Nguyễn Huệ. Sau này khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ băng hà, chỉ một người chị gái của nhà vua được vào Phú Xuân lo việc tẩm liệm c̣n phái đoàn do Nguyễn Nhạc cầm đầu đều bị chặn không cho vào.) Lớn lên ba anh em được đưa đến thụ giáo với thầy giáo Trương văn Hiến, một môn hạ của Trương văn Hạnh (Trương văn Hạnh là một quan đại thần đời Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Về sau Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền, Hạnh phản đối và bi. Loan giết chết. Trương văn Hiến sợ vạ lây bèn trốn vào An Thái mở trường dạy học). Giáo Hiến truyền dạy cho ba anh em Tây Sơn cả văn lẫn vơ. Nguyễn Huệ chuyên học đao, Nguyễn Lữ chuyên học quyền và Nguyễn Nhạc chuyên học kiếm. Khi cha chết, Nguyễn Nhạc nối nghiệp nhà, Nguyễn Lữ xuất gia theo Minh giáo tục gọi là đạo Ma Ní dùng phù phép để chữa bệnh. Chỉ có Nguyễn Huệ tiếp tục theo học với thầy giáo Hiến.

Nguyễn Nhạc kết duyên cùng Trần thị Huệ nên để tránh trùng tên với chị dâu, gia đ́nh mới gọi Nguyễn Huệ là B́nh, nhân dân địa phương gọi thân mật là chú Ba B́nh. C̣n tên Thơm là do hoa Huệ có hương thơm nên gọi thay cho tên kiêng cữ.

Một hôm Nguyễn Nhạc mua được thanh cổ kiếm dài và rất bén, nhớ ơn thầy cũ bèn xuống An Thái dâng cho thầy.  Trương văn Hiến cho biết đây là một thanh bảo kiếm, có đại phước mới vào tay, hẹn giữ hộ và ngày sau sẽ giao lại.  Rồi Trương Văn Hiến bảo Nhạc: "Lúc nầy là lúc kẻ anh hùng có thể dựng nên nghiệp cả, anh không nên để lỡ thời cơ." Ư quật cường vốn đă nhen nhúm trong người nhưng Nguyễn Nhạc từ tốn thưa: "Con tự xét không đủ tài sức"

Trương văn Hiến ôn tồn nói: "Hán Cao Tổ, Lê Thái Tổ đâu có phải từ trên trời sa xuống. Người có chí hễ năm được thiên thời địa lợi, nhân ḥa th́ đại sự thành công không mấy khó khăn. Hiện giờ Trương Phúc Loan chuyên quyền làm những việc gian ác, triều đ́nh đảo điên, nhân tâm ly tán. Nếu có người phất cờ khởi nghĩa th́ bốn phương thiên hạ đều hưởng ứng ngay. Đất Tây Sơn núi non hiểm trở có cái thế bách nhị, tới lui sức ngoài nào có thể ngăn cản. Anh chỉ có phải lo việc tài chánh quân sự nữa là có thể hưng binh." Rồi ông gọi Nguyễn Huệ ra bảo: "Con nay đă khôn lớn, tài nghệ đă vững, con hăy về nhà giúp anh."  Trương Văn Hiến lại tặng cho hai anh em hai bộ binh pháp, một của Tôn Ngô, một của Trần Hưng Đạo. Nhận thấy Nguyễn Huệ có tư chất thông minh, tiếng nói vang như chuông ngân, đôi mắt sắc bén và sáng tựa điện quang Trương Văn Hiến xét đoán con người này mai sau chí lớn vang trùm cả thiên hạ.

Hai anh em bái biệt thầy về lo việc xây dựng sự nghiệp. Nguyễn Huệ cùng anh lo gầy dựng kinh tế, huấn luyện quân sự và cùng với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lư của thầy giáo Hiến. Chẳng mấy chốc lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn, mỗi vững vàng. Những người hợp tác đầu tiên với nhà Tây Sơn có: Nguyễn Thung, phú nông Thuận Nghĩa. Bên vơ có Bùi Thị Xuân, người thôn Xuân Ḥa, Vơ Văn Dũng, Vơ Đ́nh Tú thôn Phú Phong, Trần Quang Diệu, chồng Bùi Thị Xuân người thôn An Tín. Bên văn có Trương Mỹ Ngọc ở An Nhơn, Vơ Xuân Hoài ở Phú Phong. Về sau, kẻ sĩ gần xa đến hưởng ứng thêm đông. Lực lượng  Tây Sơn đánh đâu thắng đó, vang danh một cuộc cách mạng b́nh đẳng, b́nh quyền, không tham ô của dân, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Đó là thời gian khởi đầu cuộc cách mạng dân tộc của ba anh em nhà Tây Sơn.

II. Bối cảnh lịch sử trước thời Tây Sơn dấy nghĩa:

a) Bối cảnh đằng ngoài (đằng ngoài là từ giới tuyến sông Gianh trở ra Bắc, thuộc quyền vua Lê, chúa Trịnh). Từ khi giúp vua Lê đánh bại ho. Mạc, Trịnh Kiểm chưa có thái độ lên mặt với vua Lê, nhưng đến đời Trịnh Tùng, đă dẹp yên ho. Mạc, liền lên mặt lấn áp vua Lê.  Năm 1599 Trịnh Tùng tự xưng là Đô Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Thượng  phu. B́nh An Vương và lập lên phủ chúa. Vua Lê là Lê Kinh Tông, con của vua Thế Tông lên ngôi 1600 không chịu nổi sự lấn áp của chúa Trịnh, âm mưu chống lại. Công việc bại lộ, Trịnh Tùng bức vua thắt cổ chết năm 32 tuổi. Hoàng tư? Duy Kỳ lên thay tức Lê Thần Tông. Tất cả mọi quyền hành đều trong tay phủ chúa Trịnh. Kể từ đó con cháu Lê Thái Tổ không c̣n một uy quyền nào nữa. Họ Trịnh công khai giết vua lập vua khác, làm chủ sân khấu chính trị miền Bắc như không c̣n biết ai dưới mắt nữa.

V́ ho. Trịnh lấn át quyền vua Lê nên ḷng người không phục, giặc giă nổi lên liên miên. Lại c̣n lo chiến chinh với chúa Nguyễn ở đằng trong nên cuộc sống người dân mỗi ngày càng thêm cơ cực. Theo giáo sĩ Le Breton, trong vụ đói tháng 8, 9, 10 năm 1778 có làng chết quá nửa. Tới cuối tháng 8 năm 1779 đê vỡ gây lụt lội nhiều vùng ở 3 tỉnh trung châu Bắc Việt. Trong nhật kư từ tháng 5, 1785 đến tháng 6, 1786 giáo sĩ cho biết vào cuối năm 1785 có lụt lạ thường, lại hạn hán kéo dài, sâu bọ đă tàn phá muà màng nhiều nơi, ngay cả gốc cây lúa mới cấy. Các nhu yếu phẩm mỗi ngày mỗi tăng giá. Cướp của đốt nhà hoành hành trên bộ cũng như ngoài biển, chính quyền không dám động tới. Tất cả những lư do trên đă gây ra nạn đói dữ tợn kéo dài gần ba tháng. Dân chúng một khi đói khổ triền miên như vậy, tránh sao khỏi nổi loạn.

Riêng về quan lại th́ chia nhau bè phái khi th́ vua Lê khi th́ chúa Trịnh, tha hồ vơ vét của dân. Chẳng ai c̣n quan tâm đến dân đến nước. Kẻ sĩ th́ cố gắng vươn lên kiếm lấy mảnh bằng để vượt khỏi cảnh nghèo đói khống cùng, siêu cao thuế nặng. Họ không ngại ǵ chuyện khom lưng quỳ gối, lưỡi uốn đăi đưa hèn mạt, mua quan bán chức, thi cử gian lận.

Chính trong t́nh thế nầy những người c̣n chút liêm sỉ như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đă bỏ không đi thi và dầu chúa Trịnh mời ra làm quan cũng từ chối. Chúng ta thử nghe lời b́nh phẩm quan lại nhà Lê dưới ng̣i bút của Lê Quư Đôn:

"Trong khoảng đời Hồng Đức (1470-1497) mở rộng đường khoa mục thành long trọng để kén nhân tài. Học tṛ bèn đua nhau thiên về mặt văn hay, chỉ cốt thêu chạm lời phú, c̣n phần khi tiết khẳng khái th́ đă cảm thấy tan tác hủ suy. Nhưng v́ đường sủng vinh rộng mở th́ cách khoa lệ cũng nghiêm, ai điềm tĩnh th́ tự nhiên được cất nhắc, kẻ chạy chọt cầu cạnh th́ bị cách phạt. Bởi vậy người làm quan bấy giờ ít thói bon chen mà thiên hạ c̣n biết quư danh nghĩa. Đấy lại là một thời nữa.

Từ đời Đoan Khánh (1505) trở về sau, lối thanh nghị suy kém quá, thói luồn cúi ngày càng thịnh dần. Kẻ quyền vị ít có người giữ được liêm khiết nhún nhường, nơi triều đ́nh ít thấy lời dám can ngăn kích thiết. Gặp chuyện khó chịu bèn để khỏi bận nịu, thấy nguy th́ bán nước cầu an. Cả đến bậc gọi danh nho cũng yên ḷng nhận lấy cái vinh sủng bất nghĩa, mà vẫn c̣n thi ca đi lại, khoe cái hay cái đẹp với nhau. Phong thái sĩ phu thật hỏng nát không bao giờ bằng thời nầy. Sự tệ hại của cuộc biến chuyển này không thể nói xiết được. Tính trong khoảng trên dưới một trăm năm quốc sử nầy lấy những bậc đáng gọi là cao sĩ th́ chỉ có được vài người như các ông Lư Tử Cấu, thật đáng ngán cho những bậc phong tiết này ít thấy quá vậy." (Kiến Văn Tiểu Lục)

Với những lời xét đoán trên đây của Lê Quư Đôn cho chúng ta thấy cái học của Tống Nho mỗi ngày mỗi thêm bế quan, cực đoan và đi đến độc tôn của nhà nước. V́ vậy cái học căn bản đạo đức, chính trị của Tống Nho bắt đầu từ Lê Thái Tổ đă manh nha làm cho sĩ khí kẻ sĩ mỗi ngày mỗi tệ hại, đất nước mỗi ngày mỗi điêu linh suy nhược. Đến Lê Chiêu Thống th́ vua tôi nhà Lê cam tâm đem đất nước dâng cho ngoại bang không biết điều sỉ nhục.

Đến người như Đặng Trần Thường, muốn cầu cạnh Ngô Thời Nhiệm tiến dẫn cho chúa Trịnh mà khom lưng quỳ gối đến nỗi Ngô Thời Nhiệm phải mắng cho "người hèn hạ như anh th́ làm được nông nỗi ǵ?. Sau đó Đặng Trần Thường vào hàng với Nguyễn Ánh và được tin dùng.

Ngày xưa Nguyễn Trăi sau khi dẹp xong giặc Minh, chán ngấy với cái nho phong cực đoan cũng phải xót xa than
    "Ta dư cửu bị nho quan ngộ?
    (thương ta bị cái mũ nhà nho làm ta lầm lẫn từ lâu).
Đến thời Nguyễn Ánh lên ngôi vua cũng muốn củng cố gịng họ ḿnh nên đă đang tâm xử dụng cái học Tống Nho làm cho đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, gây nên cảnh thống khổ lầm than suốt cả trăm năm dưới gót giày của bọn Pháp.
Do đấy chúng ta thấy cái học dưới đời Lư Trần không chấp vào giáo điều. Các tôn giáo đều được ưu đăi ngang nhau. Các cuộc thi tam giáo đă nói lên tính chất khai phóng của đất Lĩnh Nam. Nước nhà thịnh trị, con người ấm no, hạnh phúc.

b) Bối cảnh đàng trong: Từ khi Trịnh Kiểm sợ thế lực của ho. Nguyễn cạnh tranh lấy quyền lợi của ḿnh bèn giết Nguyễn Uông anh ruột của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng sợ quá bèn nhờ chị ruột đang là vợ của Trịnh Kiểm xin cho vào trấn Thuận Hóa để tránh sự soi mói của anh rể. Trịnh Kiểm mới giết Nguyễn Uông nay lại giết Nguyễn Hoàng sợ ḷng người không phục nên cũng muốn đuổi phắt Nguyễn Hoàng đi xa cho rảnh mắt. Năm 1558 Trịnh Kiểm xin vua Lê cho Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng mừng thầm đem gia nhân và những người t́nh nguyện vào Thuận Hóa. Trước khi đi, Nguyễn Hoàng có cho người đến thăm ḍ ư kiến của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm và được cho biết.
    "Hoành sơn nhất đái
    Vạn đại chung thân"
Lúc Nguyễn Hoàng đến Thuận Hóa, miền Nam chỉ có hai tỉnh đó là Thuận Hóa và Quảng Nam. Năm 1613 Nguyễn Hoàng lúc mất dặn người kế vị là Nguyễn Phúc Nguyên tục gọi là chúa Săi. "Đất Quảng nầy bên Bắc có núi Hoành Sơn, có sông Linh Giang. Phía Nam có núi Hải Vân và Bí Sơn là đất dụng vơ trời dành cho kẻ anh hùng. Phải biết thương dân và rèn luyện quân sĩ để gây dựng sự nghiệp muôn đời."

Chúa Nguyễn lập riêng một cơi ở phía Nam, cho nên mọi việc chính trị, quân sự, kinh tế, việc ǵ cũng tự sửa sang và xếp đặt lấy như một nước tự chủ. Lúc đầu, chúa Nguyễn chưa có ra mặt chống lại chúa Trịnh th́ quan lại ngoài Bắc được bổ vào. Nhưng về sau, chúa muốn có đủ người sung vào chính quyền mới đặt ra các khoa thi. Các khoa thi rất đơn sơ không chú trọng nhiều về từ chương, thi phú mà chú trọng thực tiễn vào đời sống của dân. Cho nên các khoa thi đều có thêm phần vấn đáp được hỏi về trách nhiệm của quan, của lính, của dân, và về thuế má và lương bổng.

Từ khi Nguyễn Hoàng mất, chúa Nguyễn không chịu thần phục chúa Trịnh nữa. Quân Trịnh vài ba năm lại đánh vào quân Nguyễn một lần. Lần đầu quân Trịnh đem quân vào Nam đánh quân Nguyễn vào năm 1627 cho đến lần cuối vào năm Nhâm Tư 1672. Từ đó lấy sông Gianh làm giới hạn giữa đàng trong và đàng ngoài.

Mặt phía bắc phải lo đối phó với quân Trịnh, mặt phía nam phải lo giặc Chiêm Thành luôn quấy phá biên giới, cho nên chúa Nguyễn phải chú trọng về vơ bị hơn. Năm Tân Mùi 1631, chúa Săi lập ra sở đúc súng đại bác, mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa.

Về phía nam, Chiêm Thành mặc dầu thế đă yếu hơn từ khi Lê Thánh Tông đưa quân vào Nam đánh, nhưng tính vẫn hay cướp bóc ở biên giới nên chúa Nguyễn phải ra sức pḥng bị. Từ năm 1617 cho đến 1697, mỗi lần đánh nhau thua trận chúa Chiêm lại cắt đất cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn được đất đặt ra phủ trấn đưa di dân vào làm ăn. Cho đến năm Đinh Sửu 1697, đất Chiêm mất hẳn trên bản đồ. Các đại thần, thân nhân của chúa Chiêm trở thành những công chức của nước Việt, hoàng gia Chiêm không c̣n uy tín nữa. Người Chiêm được chính quyền khuyến khích đổi y phục theo người Việt.

C̣n một phần đất phía nam của Thủy Chân Lạp, do sự yếu hèn và sự chia rẽ của chính quyền Chân Lạp, họ phải nhờ vào chúa Nguyễn giúp sức để chống lại loạn quân hay sự quấy phá giành đất của quân Xiêm La. Mỗi lần thắng trận họ nhớ ơn và cắt đất cho chúa Nguyễn. Theo chính sách tằm ăn dâu, chúng ta đă không cực nhọc, tốn công nhiều mà được tất cả đất đai của Thủy Chân Lạp.

Chỉ trong ṿng gần 30 năm từ 1674 đến 1705, chúa Nguyễn đă nắm trọn phần đất Thủy Chân Lạp, từ sông Gianh cho đến Hà Tiên. Được đất đến đâu, nông dân chúng ta lại khai phá đến đấy. Mặc dầu khai phá cực nhọc ban đầu nhưng nhờ tính cần cù, nhẫn nại, lại biết dung ḥa với cuộc sống mới với bà con xóm giềng, họ ít bị gặp sự chống đối hay ganh tức của người bản xứ. Đó là đặc tính dung hóa sâu sắc và khai phóng tiềm tàng trong người dân từ một nền văn  hóa Lĩnh Nam. Đất đai ph́ nhiêu màu mỡ, dân chúng sống sung túc, ấm no. Chính nhờ vật chất không thiếu thốn mà tinh thần được thoải mái.

Có nhiều người đă so sánh tính khai phóng của dân tộc ta vào những năm phát triển phía nam giống như tính khai phóng của xứ Hoa Kỳ vào những năm đầu lập quốc. Nhưng chúng tôi nhận xét thấy mặt khai phóng có thể giống, nhưng chúng ta c̣n có  tính nhân bản tiềm tàng trong mỗi người dân v́ vậy chúng ta không xua đuổi hay giết chóc dân bản xứ. Có những cái hay của dân bản xứ ḿnh học được và những cái hay của ḿnh dân bản xứ cũng học được chính nhờ đặc tính nhân bản và b́nh đẳng mà ḿnh không dựa uy quyền mà hiếp đáp họ, sống ḥa đồng với họ, cưới vợ gả chồng cho nhau, dần dần đồng hóa họ vào đại gia đ́nh dân tộc. C̣n về phía Hoa Kỳ, chúng ta không thấy hiện rơ tính nhân bản. Tính hiếu sát, săn bắn vẫn c̣n tiềm tàng trong họ. Người da đỏ bị dồn vào những nơi riêng biệt cho đến ngày gần diệt chủng. Người da đen nô lệ trong thời gian khai phá và bị liệt vào hàng súc vật. Cho đến thời tổng thống Abraham Lincoln người da đen mới bắt đầu được giải phóng.

Về phần chính quyền chúa Nguyễn, từ khi nới đất phía nam rộng răi ph́ nhiêu, sinh ra tính kiêu căng tự măn, ăn chơi hoang phí, từ vua chí quan học đ̣i tính ỡm ờ văn hoa, chữ nghĩa của Tống Nho. Kẻ sĩ mỗi ngày mỗi nhiều, tiêm nhiễm tính cực đoan của Tống Nho, sinh nhiều điều giáo điều sằng bậy. Nhân dân đói rách lầm than, giặc giă nổi lên. Theo giáo sĩ Labarette đă viết trước ngày Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân rằng tại các vùng Định Cát, Quảng Trị "Nạn đói càng ngày càng gia tăng ở đây, những nhu yếu phẩm cho đời sống đều quá giá ... Ngoài đường, trong nhà đâu cũng đầy rẫy những xác chết và không c̣n ai nghĩ đến việc chôn cất." Trong một hoàn cảnh như vậy, nhà Tây Sơn nổi lên như một luồng sóng cách mạng được nhân dân khắp nơi ủng hộ.

III. Những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ:

Chúng tôi chỉ nêu lên những trận đánh tiêu biểu mang tính chất một cuộc hành quân thần kỳ bí ẩn hiếm có trong lịch sử kim cổ.

a) Chiến thắng 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút:

Sau khi thua ở Gia Định, Nguyễn Ánh trốn ra Phú Quốc, một mặt giao con trai cho Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện quân Pháp, một mặt qua Xiêm xin cầu viện. Lúc bấy giờ nước Xiêm dưới triều vua Chakkri đương lúc thịnh vượng và nuôi tham vọng chiếm đất Chân Lạp và Gia Định để mở rộng bờ cơi. Để chuẩn bị xâm lăng, vua Xiêm cho phép Nguyễn Ánh gom góp đám lưu vong và tàn quân khoảng 1 ngàn người do Châu Văn Tiếp làm Đại Đô Đốc, sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, mùa hạ năm Giáp Th́n 1784 đem 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền hợp với sự dẫn đường của Nguyễn Ánh ồ ạt vượt biển sang Gia Định. Đồng thời vua Xiêm liên lạc với vua Chân Lạp mượn đường đưa 3 vạn quân bằng đường bộ sang Gia Định.
Sau khi đánh nhau vài trận, với số quân ít ỏi không quá 10 ngàn, tướng Tây Sơn Trương Văn Đa phải tận sức giữ phần đất c̣n lại phía đông Tiền Giang trở ra, c̣n phần đất phía tây từ Tiền Giang, Hậu Giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm. Chiếm được nửa phần đất Gia Định quân Xiêm sinh ra kiêu căng, chúng xem thường quân Tây Sơn và khinh mạn Nguyễn Ánh, chúng không lo luyện tập mà chỉ lo t́m cách cướp bóc của cải, hăm hiếp phụ nữ. Chúng dùng thuyền chở về Xiêm bao nhiêu con gái, bao nhiêu vàng bạc, của cải chiếm được. Hành động bạo ngược của quân Xiêm đào sâu ḷng căm thù của toàn dân miền tây và cả miền đông Gia Định đối với quân Xiêm và hành động rước voi giày mồ của Nguyễn Ánh. Nhờ sự ủng hộ của toàn dân mà Trương Văn Đa với số quân ít ỏi đă ngăn chặn được bước tiến của quân Xiêm. Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo t́nh h́nh của Gia Định. Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc liền sai Nguyễn Huệ, Vơ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, c̣n thêm sự tự nguyện ṭng chinh của Bùi Thị Xuân đem đại binh vào tảo trừ.

Thủy binh của Tây Sơn vào cửa Cần Giờ và đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang kéo đến Mỹ Tho nơi chủ lực quân của Trương Văn Đa đóng. Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa h́nh địa thế và cho người do thám t́nh h́nh địch. Nhận thấy đất Mỹ Tho rất ph́ nhiêu nhưng địa thế khá hiểm trở, Nguyễn Huệ sai Trương Văn Đa ra giữ thành Gia Định, c̣n ḿnh quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ông chọn khúc sông Rạch Gầm Xoài Mút và Rừng Dừa làm địa thế tiêu diệt quân thù. Lực lượng quân Xiêm và quân nhà Nguyễn quá lớn mà quân số của Tây Sơn không đầy một nửa. Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục ở các nhánh sông nhỏ quanh co, c̣n bộ binh th́ một đội mai phục ở hai bên bờ sông và trên cù lao Ông Thới, băi Tôn c̣n một đội th́ mai phục nơi rừng dừa. Thủy binh do Nguyễn Huệ và Vơ Văn Dũng chỉ huy c̣n bộ binh th́ do vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân điều khiển. Sắp xếp xong mọi việc, Nguyễn Huệ cho Vơ Văn Dũng kéo binh đến khiêu chiến. Đó là chiều ngày mồng 9 tháng Chạp năm Giáp Th́n tức 19-11-1785. Thấy có thủy quân Tây Sơn tới khiêu chiến, Chiêu Tăng liền sai Sạ Uyển cùng 1 vạn quân ở lại bản doanh và bố trí các nơi hiểm yếu c̣n ḿnh th́ thống lănh đại thủy lục quân đánh Tây Sơn. Lục quân do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Tiền Giang xuống. Thủy quân do Chiêu Sương tiên phong kéo thẳng xuống sông Mỹ Tho. Hai đạo thủy bộ dĩ nhiên có các tướng sĩ của Nguyễn Ánh dẫn đường. Quân giặc tiến binh rầm rộ nhưng không tiến nhanh được v́ dưới sông th́ nước triều đang dâng, trên bờ th́ lau lách dầy đặc. Vơ Văn Dũng được lệnh vừa đánh vừa lui. Đến đầu sông Mỹ Tho th́ trời bắt đầu tối. Đèn trên thuyền của đôi bên đều được thắp sáng. Thuyền Tây Sơn nụp trong Rạch Gầm kéo ra trợ lực cùng thuyền Vơ Văn Dũng chặn không cho thuyền giặc tiến. Đến khi trăng sắp lặn, thủy triều sắp rút th́ Vơ Văn Dũng trá bại. Thuyền giặc đuổi theo đến Rách Gầm th́ một phần lớn thuyền Tây Sơn tắt hết đèn đuốc rẽ vào rạch c̣n phần nhỏ th́ cứ xuôi ḍng sông. Thuyền giặc đuổi theo ánh đèn cho đến khi toàn bộ lọt vào trận địa th́ một tiếng pháo lệnh nổ vang. Các chiến thuyền của Nguyễn Huệ từ các rạch Xoài Mút và các nhánh sông nhỏ kéo ra chận đánh, đồng thời súng đại bác trên cù lao Thới Sơn và ở hai bên bờ năo liên tục vào thuyền địch. Bị đánh th́nh ĺnh, Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại. Thuyền trước dừng một cách đột ngột, thuyền sau đang tiến nhanh theo nước triều rút nên va chạm vào nhau lớp này đến lớp khác. Đoàn thuyền sau muốn quay trở lại th́ bị thuyền Tây Sơn ở Rạch Gầm kéo ra đánh bật lui vào trận địa. Phía trước bị chận đánh, phía sau bị khóa chặt, hai bên hông và trên đầu bị đại bác nă, phần thuyền va vào nhau làm cho hàng ngũ quân địch bị rối loạn, thuyền địch lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn ch́m. Ba trăm chiếc thuyền và hai vạn quân địch cùng với quân dẫn đường của Nguyễn Ánh bị tiêu diệt toàn bộ. C̣n đạo bộ binh của giặc do Lục Côn chỉ huy đang tiến quân bỗng nghe tiếng đại bác liền dừng lại th́ th́nh ĺnh trong đám lau lách phục binh của Tây Sơn vừa ḥ hét vừa xông ra. Lục Côn chưa trở tay kịp th́ đă bi. Bùi Thị Xuân chém bay đầu. Quân Xiêm hoảng hồn bỏ chạy tán loạn nhưng phía sau lưng và tả hữu đều bị quân Tây Sơn áp đánh, chúng bèn chạy vào rừng dừa nơi đó quân Nguyễn Huệ đă chờ sẵn để cho chúng vào đường chết.

Thế là khi trời vừa rạng đông, chiến trận cũng vừa chấm dứt. Toàn bộ 4 vạn quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh trong đêm mồng 9 tháng Chạp đến rạng ngày 10 tháng Chạp hoàn toàn bị tiêu diệt. Chỉ c̣n non mười ngàn quân lẩn trốn được. Trong đám tàn quân lẩn trốn có Chiêu Tăng, Chiêu Sương và Nguyễn Ánh.

b) Cuộc chiến với 20 vạn quân Thanh:

Từ khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt trừ tội làm phản của Nguyễn Hữu Chỉnh. Vũ Văn Nhậm trở nên tham quyền cố vị. Vua Lê Chiêu Thống cùng thái hậu lẩn trốn khỏi triều đ́nh. Nghe tin Vũ Văn Nhậm tạo phản, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc tiêu diệt Vũ Văn Nhậm rồi lập lại triều chính, cho mời Lê Chiêu Thống về giữ quốc sự xong rút quân về. Nhưng vua Lê quá sợ đă sang Tàu nhờ Tôn Sĩ Nghị tâu với vua Càn Long xin giúp. Vua Càn Long y tấu cho Tôn Sĩ Nghị tuyển quân 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quư Châu và Vân Nam. Quân Thanh được chia làm 3 đạo: 1 đạo do tổng binh Vân Nam và Quư Châu chỉ huy sang mạn Tuyên Quang, đạo thứ hai do tri phu? Sầm Nghi Đống sang mạn Cao Bằng, đạo thứ ba do Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh sang mạn Lạng Sơn. Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở theo lời bàn của Ngô Thời Nhiệm kéo quân về núi Tam Điệp trấn giữ, sau những trận đánh lẻ của Phan Văn Lân làm cho quân Thanh càng thêm kiêu căng, tự măn. Từ đó trở vào Nam quân Tây Sơn trấn giữ cắt hẳn Thanh Nghệ với các trấn đàng ngoài.

Chiều ngày 21 tháng 11 Mậu Thân 1788 Tôn Sĩ Nghị đem quân vào thành Thăng Long, đặt tướng doanh tại Tây Long Cung và bảo Lê Chiêu Thống chọn ngày tốt làm lễ sách phong, phong vua Lê làm "An Nam Quốc Vương". Dẫu được nhà Thanh ban cho quốc vương, Lê Chiêu Thống vẫn c̣n e dè không dám lấy niêm hiệu Chiêu Thống mà vẫn phải để niên hiệu Càn Long thứ 53. Hằng ngày Lê Chiêu Thống cỡi ngựa cùng vài chục lính hầu sang Tây Long Cung chầu chực việc quân quốc với Tôn Sĩ Nghị. Có bữa Nghị dâm dật chè chén say sưa ban đêm, buổi sáng cho người đứng dưới gác chuông, truyền bảo vua Lê hôm nay không có việc quốc quân, hăy cứ về cung mà nghỉ.

Luôn mấy năm mất mùa đói kém, dân gian đang bị điêu linh thống khổ nay lại phải phục dịch hàng vạn quan quân nhà Thanh, ai oán nổi lên khắp nơi. Lại thêm thảm kịch cướp của, đánh người, hăm hiếp do bọn quân Thanh gây ra, nỗi oán hận ngút trời.

Trở lại quân Tây Sơn, từ khi rút quân về Tam Điệp, Ngô Văn Sở sai Nguyễn Văn Tuyết ngày đêm về Phú Xuân khẩn báo lên Nguyễn Huệ. Được tin quân Thanh sang chiếm đóng Thăng Long, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lập tức hội các tướng đến bàn việc dẹp giặc. Các tướng xin vương trước nên chính vị hiệu để kết nối dân Bắc nam rồi hẵng khởi binh. Theo lời, vương cho đắp đàn Bàn Sơn (gần núi Ngự B́nh) rồi vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân 1788 làm lễ tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế đặt niên hiệu Quang Trung.

Ngay sau khi tế cáo trời đất xong, vua Quang Trung liền thống lĩnh thủy bộ đại binh, đốc xuất tướng sĩ ngay tại tế đàn kéo hết ra Bắc. Chỉ trong ṿng 4 ngày, tức ngày 19 tháng 11 năm Mậu Thân, đại binh ra đến Nghệ An (từ Phú Xuân ra Nghệ An khoảng đường dài 300Km nhiều đèo núi hiểm trở mà đại binh với hàng trăm thớt voi chỉ di chuyển trong ṿng 4 ngày thật là điều hiếm có!)

Nhà vua cho đóng quân ở Nghệ An để tuyển mộ thêm quân và trữ thêm lương thực. Sau mươi hôm số lính mới và cũ tính hơn 10 vạn, trên 200 thớt voi và 5 ngàn ngựa. Tân binh được luyện tập hằng ngày. Nhà vua cỡi voi đi xem tập luyện và ban lời phủ dụ mọi người. Theo giáo sĩ Le Roy đă tả th́ đạo quân Quang Trung gồm cả những người già trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh. Ấy thế mà đạo quân ấy lại đánh thắng được đạo quân Trung Hoa.

Chuẩn bị đâu đấy xong, nhà vua hạ lệnh trẩy quân. Ngày 20 tháng Chạp Mậu Thân (15-1-1789) khi đại binh tới Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội giữa Thanh Hóa và Ninh B́nh) Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân ra chịu tội nhưng nhà vua cười "Ta biết đây là kế của Ngô Thị Lang, lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích sĩ khí, ngoài tăng thêm ḷng kiêu ngạo của địch. Kế dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta, như thế là phải." Nhà vua lại nói thêm "chúng nó sang chuyến nầy là mua lấy cái chết đó thôi, ta đă định mẹo cả rồi. Dẹp yên giặc chỉ trong mươi ngày là xong."

Hai lần ra Bắc trước nhà vua đă quan sát rơ địa h́nh địa thế Bắc Hà và khi dừng binh ở Nghệ An, nhà vua đă mật sai quân đi do thám để nắm rơ t́nh h́nh của địch.

Nhà vua chia quân là làm bốn dinh: Tiền, Hậu, Tả và Hữu. Tân binh Nghệ An được chia làm Trung quân do nhà vua trực tiếp điều khiển. Tiền quân do Đại tư mă Ngô Văn Sở và Nội hầu Phan Văn Lân cai quản. Hậu quân do Hô Hổ Hầu đốc chiến. Tả quân do Đại đô đốc Nguyễn Văn Lộc và Đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy. Nguyễn Văn Tuyết giữ nhiệm vụ kinh lược Hải Dương tiếp ứng mặt Đông Lộc đến Lạng Sơn, Phượng Nhă giữ vùng Yên Thế chận đường rút lui của địch. Hữu quân gồm có mă quân và tượng quân do Đại đô đốc Nguyễn Văn Bảo và Đại đô đốc Đặng Văn Long thống lănh. Long đem mă quân qua huyện Chương Đức (Hà Đông). Bảo đem tượng quân qua vùng Sơn Minh (Ứng Ḥa, Hà Đông) để làm quân tiếp ứng.

Để làm cho địch thêm ḷng kiêu căng, nhà vua sai Trần Dinh B́nh cầm đầu sứ bộ 8 người mang lễ vật và văn thư để "tha thiết" xin đại nguyên soái thiên triều tra xét rơ v́ sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê và trả cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Đắc Thiệu Tống cầm đầu mà quân Tây Sơn đă bắt được. Tôn Sĩ Nghị dương dương tự đắc chém sứ cùng tên tướng cướp và giam giữ đoàn sứ giả.

Sắp đặt mọi chuyện xong xuôi, nhà vua cho mở tiệc khao quân vào ngày 29 tháng Chạp và tuyên bố "Bữa nay chúng ta sẽ ăn Tết Nguyên đán trước. Sang xuân ngày mồng Bẩy Tết vào thăng Long chúng ta sẽ ăn Tết khai hạ." Vua lại nói thêm "Sang năm một là ăn Tết, hai là cùng chết. Tướng sĩ hăy hết ḷng cùng ta." Sáng hôm sau, 30 tháng Chạp, nhà vua truyền lệnh xuất quân. Tiếng hoan hô vang trời, khí thế mạnh như chuyển núi.

Trước đây nhân dân bị thống khổ, hết loạn kiêu binh chúa Trịnh đến Lê Chiêu Thống đem ngoại bang giày xéo đất nước. Nay nghe đoàn quân giải phóng Tây Sơn đến đâu là họ hết ḷng ủng hộ và nhiều nơi đem bánh chưng, giết heo, ḅ thết đăi. Nhà vua cấm binh lính không được cướp phá tài sản của dân.

Chưa hết ngày 30, quân Tây Sơn đă chuyển quân nhanh qua sông Giản Thủy (thuộc Ninh B́nh) Hoàng Phùng Nghĩa, cựu thần nhà Lê do Tôn Sĩ Nghị sai đóng giữ ở Sơn Nam (nay là Nam Định) chưa kịp giao đấu đă hoảng hốt tan vỡ chạy thục mạng qua sông Nguyệt Quyết (Thanh Liêm, Hà Nam) khiến cho bọn quân do thám của Thanh cũng chạy tán loạn. Để cắt đứt mọi thông tin về Thăng Long, vua Quang Trung thúc quân đuổi đến Phú Xuyên (Hà Đông) bắt sống hết sạch bọn quân do thám. Nhờ vậy các đồn khác phía ngoài không hay biết ǵ đến nghĩa quân đang kéo ra.

Nửa đêm mồng 3 Tết, nghĩa quân vây đồn Hà Hồi, quân Thanh đang ngủ, nghe tiếng reo ḥ, tiếng trống trận vang rền, quá kinh hăi, rối loạn không c̣n khả năng chống cự bèn kéo cờ hàng. Nghĩa binh chiếm trọn quân trang và lương thực địch.

1) Trận Ngọc Hồi:

Đến đêm mồng 5, vua sai đem quân lương vào môt. nơi rồi đốt sạch và bảo tướng sĩ "Hễ thắng giặc th́ được no, thua giặc th́ chết đói." Đoạn nhà vua lấy khăn vàng quấn vào cổ và thề rằng "Nếu không thắng được giặc th́ chết với khăn nầy chứ nhất định không lui." Với khi thế hùng dũng, tay xách ô long đao, nhà vua lên ḿnh voi thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận đi trước, quân theo sau lướt như gió cuốn.

Tướng Măn Thanh hay tin, kéo kỵ binh ra chận đánh nhưng vừa trông thấy voi ngựa sợ cuống, hí lên kinh hoàng rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút vào giữ đồn. Đồn rất kiên cố, mặt ngoài lũy đều có cắm chông và đặt phục lôi, trong đồn lại bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung bèn truyền lấy 60 tấm ván dầy, cứ 3 tấm ghép thành một lá chắn ngoài phủ rơm trộn đất ướt. Rồi cứ 10 người lưng đeo đoản đao khiêng một lá chắn đi trước, tiếp theo 20 người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất.
Quân Thanh thấy đang gió bấc bèn đốt thuốc súng chứa trong ống để khói tỏa mờ làm loạn mắt quân Nam. Nhưng một chập sau gió trở gió nồm, khói lại bay vào đồn. Lợi dụng cơ hội ấy, Quang Trung hô xung phong. Toán có khiên chắn lăn xả vào trước, đội quân tinh nhuệ theo sau cố sức xông vào. Chính nhà vua thúc voi đốc quân đánh lớp này đến lớp khác. Trong giây lát quân ta tràn vào tận trong đồn. Từng toán quân ta quăng ván gỗ, tay cầm đoản đao đánh xáp lá cà với quân địch. Quân Thanh không địch nổi, trận vỡ, chạy xéo lẫn nhau tán loạn ra bốn ngă đạp lên phục lôi do bọn chúng chôn từ trước. Quân Thanh chết và bị thương rất nhiều. Các tướng Thanh: Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng ... đều chết tại trận.

Đồn Ngọc Hồi giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống pḥng ngự của địch. Lực lượng có trên 3 vạn quân tinh nhuệ đều bị tiêu diệt.

Đại đô đốc Nguyễn Văn Bảo từ Sơn Minh  đem tượng binh đến Đại Áng chặn đón đánh quân từ Ngọc Hồi tháo chạy và tiêu diệt toàn bộ.

2) Trận Đống Đa - Đồn Khương Thượng:

Đồn Khương Thượng nằm về phía tây nam thành Thăng Long là một cửa ngơ vào Thăng Long. Đại đô đốc Đặng Văn Long cùng với phó tướng Đặng Tiến Đông từ huyện Chương Đức đến Thanh Tŕ trước hết tiến chiếm hai đồn Yên Quyết và Nhân Mục nằm tây bắc đồn Khương Thượng. Hai đồn bị hạ một cách nhanh chóng và im lặng. Quân Đại đô đốc Long kéo vây đồn Khương Thượng lúc chưa tinh sương. Nhờ nhân dân ủng hộ dùng rơm khô bện làm con cúi tẩm dầu đốt làm chung quanh đồn Khương Thượng rừng rực lửa cháy. Đồng thời hàng ngàn tiếng reo ḥ vang trời. Quân Thanh bị khủng hoảng tinh thần không c̣n sức chống cự. Đô đốc Long phá cửa đồn tràn vào như nước vỡ đê. Sầm Nghi Đống luống cuống không kịp đối phó trốn ra Hoa Sơn (tức g̣ Đống Đa) thắt cổ tự tử. Quân địch chết rất nhiều. Số c̣n sống sót, một phần chạy ra Bắc, một phần theo sông Tô Lịch vào Nam bị Đô đốc Lộc chặn đánh bị tiêu diệt hết.

Tại bản doanh Tôn Sĩ Nghị đang theo dơi mặt trận phía nam bỗng được tin đồn Ngọc Hồi và Khương Thượng đều bị tiêu diệt và quân Tây Sơn đang kéo đến kinh thành. Y c̣n lúng túng chưa biết tính sao th́ quân của Đại đô đốc Long từ Khương Thượng đă kéo vào Thăng Long với khí thế hừng hực. Tôn Sĩ Nghị sợ quá không kịp mặc giáp, không kịp thắng yên cương cùng toán kỵ binh hầu cận bo? Tây Long Cung vượt cầu phao qua sông Nhị. Thấy chủ tướng chạy trốn, tướng sĩ cũng ùn ùn chạy theo, lấn nhau qua cầu phao. Cầu găy làm hàng vạn quân Thanh chôn vùi dưới ḍng sông Nhị Hà.

Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm Ải Nam Quan chạy thục mạng. Nhưng chạy đến đâu cũng bị quân Đại đô đốc Lộc đánh chặn bắt và giết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị phải vất cả sắc thư và ấn tín để lo chạy thoát thân. Nghị chạy xấc bấc xang bang đến bảy ngày đêm không cơm nước mới đến trấn Nam quan. Chiêu Thống cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị.

Riêng đạo quân đóng dự pḥng ở Sơn Tây, tuy không bị tấn công, cũng hoảng sợ rút chạy về nước. Đến nỗi dân chúng Tàu gần biên giới không biết thấy quân chạy cũng bỏ nhà cửa chạy theo vào sâu nội địa hàng dặm.

Chiều mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789) vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long trong không khí tưng bừng. Áo bào nhà vua đỏ thắm đă bị khói thuốc súng nhuộm thành màu đen. Nhà vua đă vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày. Trăm họ ra nghênh tiếp chật đường và tiếng reo ḥ của dân chúng và binh sĩ vang cả góc trời.
Theo đúng hẹn, vua Quang Trung cho tướng sĩ ăn Tết môt. lần nữa. Tết chiến thắng, Tết thanh b́nh!

c) Phân tích các yếu tố đưa đến chiến thắng của vua Quang Trung:

Mọi cuộc chiến xuất phát từ bộ năo của quân Tây Sơn đều được tính toán kỹ lưỡng, xem xét từng chi tiết, ước lượng t́nh h́nh, cân đo quân số ... cho nên khi đă đánh phải tất thắng.

- Chuẩn bị chu đáo: Trước khi hành quân nhà vua cho hội họp tướng sĩ sơ lược mục tiêu, nơi chốn địch đang hiện diện, địa h́nh, địa vật sẽ giao tranh với địch. Những phương tiện hành quân như thuyền bè, voi, ngựa, đại bác ... đều phải được sắp xếp cẩn thận cho nên thời gian chuẩn bị thường lâu dài và kín đáo.

- Chuẩn bị tâm lư: Khi cần hành quân ở đâu, vị tướng hành quân chuẩn bị tâm lư quần chúng. Ly gián quần chúng với địch. Dùng quần chúng để dẫn đường và thám báo, đồng thời tung gián điệp để thám thính, cấy người làm nội gián trong hàng ngũ địch, triệt để trừ khử nội gián của địch trong hàng ngũ, hay gián điệp của địch như trường hợp phái bô. Bắc Hà do Trần Công Sán vào Thuận An, khi trở về đều bị tiêu diệt cả, như tất cả quân thám thính của quân Thanh đều bị trừ khử hết. Ta biết địch mà địch không biết ta là yêu tố quan trọng để chiến thắng.

- Chọn địa điểm giao tranh để thuận lợi cho ta về quân số, về tiện nghi để lùa địch vào chỗ chết: Trận đánh Rạch Gầm- Xoài Mút, Nguyễn Huệ chọn khúc sông Mỹ Tho giữa Rạch Gầm và Xoài Mút nơi có nhiều cù lao và trên bộ th́ có nhiều lau lách. Vũ Văn Dũng trá bại để cho địch đuổi đến nơi thích hợp và giờ giấc ấn định cho con thủy triều bắt đầu rút. Quân Nguyễn Huệ chưa bằng một nửa số quân địch mà đă diệt toàn bộ quân Xiêm.

- Hành quân triệt để nhanh và bí mật: Các cuộc hành quân ra Bắc đều được trẩy như gió cuốn và bất ngờ. Người am hiểu t́nh h́nh quân sư. Tây Sơn như Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm đều không ngờ tới và lường được. Một cung nữ của bà Lê Thái Hậu đă nhận xét "Cứ xem những lời trong bài hịch th́ thấy ngài (Tôn Sĩ Nghị) buộc cho ta nhiều lắm mà ngài cứ lượn lờ trên sông, chỉ thanh thế dọa nạt, không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng hảo thủ hung tợn, giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất quỷ nhập thần không ai có thể ḍ biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt ...."

- Về yếu tố di chuyển: quân Tây Sơn rất nhanh chóng. Với cuộc hành quân di chuyển cả hàng vạn người cùng đồ dùng cá nhân, đại bác, voi, ngựa, lương thực ... từ Thuận Hóa ra đến miền Bắc cả hàng trăm cây số mà đường xá lại khó khăn, gập ghềnh đèo cao, sông cả. Vậy mà quân Tây Sơn chỉ đi trong ṿng vài ngày, đó là một điều kỷ lục bí ẩn. Tất cả những tài liệu sách vở, chứng tích của thời Tây Sơn đều bị Nguyễn Ánh và vua quan nhà Nguyễn tiêu hủy hết. Cho nên người ta chỉ phỏng đoán là vua Quang Trung dùng tổ 3 người, hai người khiêng vơng, 1 người ngủ, cứ vậy mà đi. Nhưng nhiều người phản bác, cho rằng thế vẫn chậm. Có người cho rằng họ di chuyển bằng đường thủy nhanh hơn đường bộ v́ quân Tây sơn có trên 600 chiến hạm đủ cỡ. Trong đó có những chiến hạm có thể trang bị tới 50 - 60 đại bác. Chaigneau, một sĩ quan giúp Nguyễn Ánh đă nhận xét "Trước khi thắng được thủy quân địch, tôi đă coi thường lực lượng này nhưng nay tôi đoan chắc với các ông rằng đó là lầm lạc. Quân Tây Sơn đă có những chiến hạm trang bị 50 và 60 đại bác."
Nhờ sự di chuyển nhanh chóng mang lại yếu tố bất ngờ trong các cuộc hành quân mà quân Tây Sơn hạ bao nhiêu đồn địch trong chớp nhoáng. Địch không thể ngờ được quân Tây Sơn lại đến nhanh được như thế, bất ngờ như thế.
Ngoài ra c̣n những yếu tố khác như voi trận để làm ngựa sợ chạy tán loạn, súng đại bác, súng hỏa hổ, khiên chắn đạn địch, tiếng loa hô xung phong, tiếng ḥ hét, tiếng trống trận... đều làm cho địch khiếp đảm mà không c̣n tinh thần chiến đấu. Vấn đề hậu cần cho cả đoàn quân cũng rất nhiêu khê đă được quân Tây Sơn giải quyết nhẹ nhàng, đầy đủ. Hiện nay người ta cũng chưa biết nhà vua làm thế nào có lương thực cho quân ăn dọc đường khi hành quân thần tốc như vậy. Đây làm một bí ẩn khác mà người ta giả đoán là quân ăn bánh tráng và bánh tét, loại lương thực có thể vừa đi vừa ăn mà không mất thời gian.

Tóm lại, tất cả yếu tố trên cho chúng ta thấy Nguyễn Huệ là một nhà quân sự đại tài, loại người mà binh thư Tôn Ngô và Trần Hưng Đạo cho là không phải người thánh trí th́ không thể làm được như vậy "Nắm cả quân như sai một người, ai cũng phải làm, không ai là không làm."

IV. Quang Trung, một con người toàn Việt:

Ba anh em Tây Sơn xuất thân từ nông dân, dấy binh khởi nghĩa trong ḷng dân để sửa đổi một t́nh trạng xă hội bất công, thối nát, nghèo đói và loạn lạc. Như một giáo sĩ Tây phương đă nhận xét "Họ tự xưng là những người theo mệnh trời để thi hành công lư và giải phóng nhân dân ra khỏi ách quan liêu phong kiến đúng như các nhà cách mạng xă hội chủ trương." Nguyễn Huệ khi cùng anh khởi binh cách mạng chỉ vừa tṛn 20 tuổi, tuổi căng đầy lư tưởng, xây dựng cho ḿnh một cách nh́n, thế đứng khi đă chiêm nghiệm những sở trường và sở đoản của các thế lực đương thời và ngay cả thế lực của phong trào Tây Sơn dưới sự lănh đạo của Nguyễn Nhạc. Chính người thanh niên này đă thao thức và quán triệt một đường lối xuyên suốt và một tâm thức không vị kỷ. Cho nên sở nguyện của Bắc B́nh Vương đă cống hiến một cách trọn vẹn năng lực và tâm hồn trong sáng của ḿnh cho một lư tưởng chung. Bao nhiêu năm về trước, chính điểm then chốt này mà Hai Bà Trưng đă xả thân cứu nước, cứu dân mà không nghĩ đến sự đền bù nào từ dân tộc. Cũng chính điểm then chốt này mà Nguyễn Trăi chịu mười năm bao nhục h́nh, cay đắng để kết tinh cuốn B́nh Ngô Sách đem dâng cho Lê Lợi. Những người thanh niên nam nữ ấy đă ươm giống trong ḷng dân tộc, tưới tẩm và nuôi dưỡng bằng gịng văn hóa tinh hoa: NHÂN BẢN, NHÂN CHỦ, nghĩa là đem một t́nh thương yêu bao la trải trên toàn dân với một trí tuệ trong sáng và không c̣n vị kỷ nữa.

Chính nhờ xây dựng cho ḿnh một tâm thức như vậy mà cá nhân Nguyễn Huệ khước từ quan điểm cá nhân chủ nghĩa của Vũ Văn Nhậm hay quan điểm cơ hội chủ nghĩa của Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai lần đem quân ra Bắc, hai lần Nguyễn Huệ đều từ chối mọi chức vụ và quyền hành của vua Lê giao phó. Như vậy đủ tỏ Nguyễn Huệ đă nghiêm khắc phê phán tính cách cát cứ địa phương hay năo trạng lănh chúa như anh ḿnh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Ánh hay chúa Trịnh. Nhờ tâm thức vô vị kỷ cho nên người thanh niên Nguyễn Huệ đă coi nhẹ mọi thành công của cá nhân, hay những thành tựu của ḿnh trong việc cứu nước, cứu dân. Thành tựu to lớn đó là của cả dân tộc. Sự lên ngôi vua tại Phú Xuân là một điều không có không được. Không thể không có một vị quốc trưởng để nối kết toàn dân trong một sự nghiệp vô cùng to lớn và trọng đại này mà Lê Chiêu Thống đại diện xưa nay đă cam tâm mang voi ngoại xâm giày mồ tổ.

Nhờ xây dựng cho ḿnh một tinh thần vô vị kỷ này Quang Trung ba lần cầu hiền La Sơn Phu Tử bị từ chối mà không một tự ái cá nhân hay dùng quyền uy để buộc. Những lần khác, khi biết rơ vua Lê không ra ǵ nữa Nguyễn Thiếp mới chịu hợp tác với tính cách chân trong chân ngoài. Quang Trung tinh ư nhận biết nhưng không một mảy may giận hờn, trách móc mà thái độ vẫn nhún nhường và coi La Sơn Phu Tử như một bậc thượng khách hay một vị thầy. Đối với Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn Huệ đă đánh giá đúng mức khả năng của mọi người mà giao phó trách nhiệm như một sự gánh vác chung cho cả dân tộc chứ không riêng cho một cá nhân hay một gịng họ nào. V́ vậy sự đóng góp hết ḿnh của Ngô Thời Nhiệm với tất cả khả năng sáng tạo là một công cuộc chung cho toàn bộ cơ cấu và cũng đáp lại tấm thịnh t́nh của Nguyễn Huệ. Chúng ta cũng thấy sự đóng góp của thanh niên Đặng Văn Long trong trận chiến đánh đuổi quân xâm lăng cũng là một gương sáng. Trong khi huấn luyện binh mă tại Nghệ An, Nguyễn Huệ đă ngạc nhiên, chú ư đến người thanh niên xuất sắc Đặng Văn Long, và đưa vào địa vị tương xứng với chức vu. Đại Đô Đốc. Cho hay tri âm gặp tri kỷ, con mắt của Nguyễn Huệ thật tinh tường.

V. Việc xây dựng đất nước sau chiến tranh:

Khi ḥa b́nh trở lại, vua Quang Trung khởi sự xây dựng đất nước từ những hoang tàn, đổ nát, tang thương. Với tâm thức vô vị kỷ, ngài không theo quan điểm Tống Nho như Lê Lợi hay Nguyễn Ánh sau này. V́ Tống Nho giáo điều, bạc nhược của triều chính nên sức đề kháng và ḷng tự tin của dân bị suy thoái trong thời kỳ bại vong Lê Chiêu Thống hay trong thời nhà Nguyễn. Ngài chọn con đường xuyên suôt' của ḍng vận động lịch sử từ thời lập quốc đến hai triều đại thịnh tri. Lư, Trần.

- Về quốc học: Quang Trung muốn có một nhà vững mạnh và có hiệu lực nên ngài đă chú trọng đến chất lượng của việc đào tạo, và cải tổ lại hệ thống hành chính các cấp cho phù hợp với yêu cầu mới của đất nước. Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xă đến phủ, huyện. Những người trong bang giảng huấn phải là người học và hạnh kiêm toàn. Các tổ chức tư nhân có thể mời thầy về dạy cho con em ḿnh. Đồng thời ngài sai Nguyễn Thiếp lập Sùng Chính Viện hợp tác với nhiều nhà khoa bảng khác thông thạo chữ Nôm như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định... để dịch tất cả kinh sách và các tác phẩm có đạo đức và văn chương ra chữ Nôm.

Mọi văn thư đều được viết bằng chữ Nôm. Nhờ sự khuyến khích đó mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn rất thịnh hành.

- Về tôn giáo cũng như các đời Lư, Trần, với tinh thần khai phóng, ngài cho tự do tín ngưỡng. Các tôn giáo như Phật giáo, Lăo giáo, đạo Ma ní, đạo Thiên Chúa đều được tự do truyền đạo. Riêng đối với đạo Phật, ngài thấy làng cũng có chùa, mà phần đông các sư ít học, chỉ mượn tiếng tu hành để kư sinh vào xă hội, không mấy người hiểu thấu đạo lư cao sâu của đức Phật nên ngài xuống chiếu bắt bỏ các chùa nhỏ ở làng. Mỗi phủ, mỗi huyện được cấp gỗ gạch để xây môt. ngôi chùa lớn, khang trang rồi chọn tăng ni có học thức đến trụ tŕ. C̣n các sư đội lốt tu hành đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân.

- Về tuyển chọn nhân tài: Quan điểm xử dụng trí thức của Quang Trung được thể hiện rơ trong bài Chiếu Lập Học "Dựng nước lấy việc học làm đầu, trị nước chọn nhân tài làm gốc... Trẫm buổi đầu dựng nghiệp tôn trọng việc học, lưu tâm yêu mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài ra giúp đất nước."

Trong muôn ngàn nho sĩ, trí thức và quan lại của chế độ cũ mà vua Quang Trung đă tiếp xúc, ngài vẫn yêu mến những người có tài năng thật sự, có tâm huyết với dân, có bản lănh, khẳng khái dù cho họ có lập trường chính trị khác. Ngài hiểu họ chỉ là sản phẩm của một xă hội khổ đau và đầy biến động, nên ngài kiên tŕ thuyết phục, chăm lo để có những thực tài ra giúp nước. Tính rộng lượng, bao dung và thủy chung đối với trí thức là những đức tính cần thiết để Nguyễn Huệ thu phục nhân tài trong thiên hạ.

V́ vậy, trí thức đến với Nguyễn Huệ v́ một ḷng nhiệt thành phục vụ cho sự nghiệp chung của đất nước.
Trong nước, ngài tu chỉnh thuế khóa, chăm lo khuyến nông, lập ngân hàng chợ búa giữa biên giới ta và Tàu để dân chúng hai xứ tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa và lập các thương cảng để tàu ngoại quốc được ra vào tự do buôn bán.

Về mặt đối ngoại, từ khi đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cơi, ngài muốn tránh nạn can qua cho dân chúng an cư lạc nghiệp, vua Quang Trung cho trao trả những tù binh quân Thanh và cấp cho lương thực và phương tiện để về nước, đồng thời sai Ngô Thời Nhiệm viết biểu giao thiệp với nước Tàu.

Những thành công của vua Quang Trung là ngài đă đ̣i lại những đất đai đă mất dưới đời Lê - Mạc, băi việc cống người, vàng (một quốc hận đáng kể cho dân Việt từ đời Lê Lợi) và cuối cùng dâng sớ cầu hôn công chúa Tàu và đ̣i lại đất Lưỡng Quảng. Nhưng việc cầu hôn và đ̣i đất Lưỡng Quảng chưa được thực hiện th́ nhà vua băng hà năm 40 tuổi. Đó là ngày 29-7 năm Nhâm Tư (15-9-1792).

Tài danh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đă đem lại những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc, mang lại cho đất nước những cải tổ sâu rộng như hai vầng nhật nguyệt tỏa ra rạng rỡ trên núi sông.

Nhưng tiếc thay, đau đớn thay! Trời đă đoạt đi người tài danh đang độ tuổi phục vụ tích cực cho đất nước.

Hôm nay chúng ta ôn lại các trang sử Quang Trung chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động và tự hào về người anh hùng trẻ tuổi đất Tây Sơn, người đă dâng hiến cho dân tộc một nền vinh quang chói lọi. Chỉ mười bốn năm tṛn, người thanh niên ấy đă dành cho ḿnh 10 năm để chiêm nghiệm, để tài bồi cho ḿnh tấm ḷng thương yêu dân tộc vô bờ bến với một tinh thần vô vị kỷ, một trí tuệ trong sáng giữa những bối cảnh lịch sử đầy hận thù, chia rẽ, tối tăm và lạc hậu. Chỉ bốn năm c̣n lại để phát triển đất nước với một nghị lực phi thường và tự thắng những vọng động tham lam. Mọi việc đang h́nh thành tốt đẹp th́ bị đứt đoạn nửa chừng!

Chúng ta muốn "làm người Quang Trung" chúng ta học hỏi gương của ngài, tu luyện thân tâm, kiềm chế những vọng động nhân ích kỷ, thấp hèn, những tham vọng bè phái rồi từ đó vượt qua những bế tắc, khủng hoảng hiện nay hầu xây dựng một tương lai phục sinh cho đất nước, đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho toàn dân.

 

Trích từ: http://www.saigonbao.com/

 

 

 

Nguyễn Huệ và sự định vị nhân cách thời đại

Trong sự nghiệp vĩ đại của đời ḿnh, công đức lớn nhất của Quang Trung là xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đánh giặc ngoại xâm, giữ vững nền độc lập dân tộc. Song bên cạnh những vơ công bách chiến bách thắng, ông đă bền ḷng thực hiện chiến thuật tâm công vẻ vang không kém nhằm cứu vớt nhân cách của thời đại ḿnh khỏi sự suy đồi, trả lại cho nó những giá trị đích thực, để rồi đến lượt ḿnh, các nhân cách đó góp phần cùng ông làm vinh danh cho quốc gia, triều đại.

 

Ngọn cờ Tây Sơn dựng lên trong một thời buổi loạn lạc. Ở Đàng trong, Trương Phúc Loan chuyên quyền, quan lại tham ô, cường hào ác bá nổi lên như rươi, nhân dân lầm than khổ cực. Phần lớn trai tráng không có ruộng cày, học văn học vơ không có chỗ đắc dụng. Cướp bóc trở thành một "nghề" kiếm sống phổ biến. Khi vâng mệnh anh là đệ nhất trại chủ Nguyễn Nhạc đi chiêu tập anh tài, Nguyễn Huệ lọc ra giữa bụi lầm thời cuộc những anh hùng lỡ vận. Theo Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Tŕ, th́ trước khi gặp Nguyễn Huệ, Nguyễn Văn Tuyết nguyên là một tay anh chị ở chợ G̣ Chàm, từng nổi danh với vụ nửa đêm lẻn vào dinh tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên trộm con ngựa quư của chúa Nguyễn rồi tự tay đề lên vách "kẻ trộm ngựa chúa là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn". Vơ Văn Dũng là một tướng cướp, hành nghề "lạc thảo" ở vùng rừng núi Phú Phong. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mang thân phiêu linh trôi giạt. Giữa cơn sóng gió thời cuộc, họ không là kẻ cướp th́ là dân phiêu tán giang hồ, không là kẻ trốn chạy sự truy đuổi của triều đ́nh th́ là kẻ bị áp bức cùng đường. Chính Nguyễn Huệ đă dang tay đón họ, đưa họ về với phong trào Tây Sơn, tập hợp những người tứ cố vô thân dưới mái nhà tụ nghĩa, biến họ từ kẻ cướp thành lương tướng. Nguyễn Văn Tuyết sau là đại đô đốc Tuyết, từng theo Nguyễn Huệ đánh Nguyễn, diệt Trịnh, b́nh Thanh, được giao cùng Ngô Văn Sở lo việc Bắc Hà. Vơ Văn Dũng sau theo Nguyễn Huệ lập nhiều công lớn, được phong đại đô đốc Chiêu viễn hầu, thời Cảnh Thịnh thăng đến chức đại tư đồ, là người chủ trương cuộc thanh trừ loạn thần Bùi Đắc Tuyên. Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Đặng Đ́nh Minh, Đặng Văn Long, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Vơ Đ́nh Tú, Nguyễn Văn Lộc … Hàng ngàn hàng vạn người, nếu không nói là cả một thế hệ, ví như không có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và Nguyễn Huệ - họ sẽ măi măi chỉ là thành phần bị bóc lột cùng đinh, nói chi đến chuyện trở thành nghĩa quân, danh tướng, được biết niềm hạnh phúc xả thân v́ đại nghĩa, được sống một cuộc sống hào hùng, được sử sách lưu danh muôn thuở.

Thử thách lớn nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ gặp phải là công cuộc chinh phục kẻ sĩ, vốn là tầng lớp được coi là tinh túy nhất của xă hội phong kiến. Phong trào khởi nghĩa Tây Sơn là cuộc nổi dậy của tầng lớp nông dân bị áp bức, và những người lănh đạo nó là những người áo vải. Đó là một ưu điểm lớn xét về bản chất lịch sử, song trong thời điểm bấy giờ, nó lại là một nhược điểm khiến cho phong trào khó tiếp cận tầng lớp trí thức vốn mang nặng tư tưởng tôn pḥ chính thống. Các lănh tụ Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Huệ ư thức rất rơ điều này, cho nên không chỉ trong bước khởi nghiệp mà măi đến khi đă h́nh thành nhà nước Tây Sơn, Nguyễn Huệ rất lo lắng v́ sự thiếu vắng đội ngũ trí thức trong lực lượng cách mạng của ḿnh. Trong thư gửi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, ông không giấu giếm nỗi lo ngại: "Những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ mạnh bạo… Đạo trị dân đại để có nhiều điều làm cứng cỏi phiền nhiễu."

Thời bấy giờ những trí thức có chút danh giá ở Đàng trong trốn theo chúa Nguyễn, c̣n giới sĩ phu Đàng ngoài đă quen nh́n Đàng trong là láng giềng hoặc "phía bên kia". Khi Nguyễn Huệ kéo quân ra nêu cao chính nghĩa diệt Trịnh pḥ Lê, họ đă nh́n đội quân Tây Sơn như một lũ giặc mọi rợ, gọi xách mé là "man tặc", là lũ "giặc lông đỏ". Trong một bài thơ của ḿnh, Phan Huy Ích gọi quân Tây Sơn là "tặc phong lai" - lũ giặc đến theo hơi gió. Các ḍng trí thức lớn đều chiêu mộ hào kiệt "ḍ hư thực thế nào để t́m cách bắt lấy Huệ". Bùi Dương Lịch ở Nghệ An thấy Nguyễn Thiếp không chịu ra hợp tác với Nguyễn Huệ đă làm thơ ca ngợi. Không phải Nguyễn Huệ không biết điều đó. Theo Hoàng lê nhất thống chí, Nguyễn Huệ hơn một lần khiêm xưng ḿnh là kẻ ở hang núi xa xôi, nhưng trước hàng trăm cặp mắt của những kẻ tự nhận là bậc thức giả quan sát ông, kẻ ở hang núi luôn "coi xét lễ nghi hết sức chu đáo" trong mọi ứng xử với triều đ́nh nhà Lê. Hai lần ra Bắc, Nguyễn Huệ có thừa cơ hội và sức mạnh để nắm lấy quyền thống trị đất nước. Song cả hai lần Nguyễn Huệ đều hành động rất cao thượng, không hề nhân chỗ yếu của người mà làm lợi riêng cho ḿnh, chấp nhận quyền giám quốc của Sùng Nhượng công, kêu gọi cựu thần nhà Lê ra làm việc lại. Ông chủ trương dung nạp rộng răi những người muốn ra hợp tác, và ông luôn lấy mắt xanh để nh́n kẻ sĩ.

Kể ra bấy giờ dưới trướng ông đă có những kẻ sĩ tài giỏi như Trần Văn Kỷ, Ngô Thế Lân, … nhưng với quan niệm "Dựng nước lấy đạo học làm đầu; cai trị lấy nhân tài làm gốc", ông biết sau những chiến công, nền văn trị mà ông tiến hành rất cần các tài năng lớn. Khi Ngô Th́ Nhậm đến ra mắt, Nguyễn Huệ đă nhận ra chân tài từ cái nh́n đầu tiên, ông bảo: "Đây là trời để dành người tài cho ta dùng" rồi ban ngay chức tước xứng đáng, phong Ngô Th́ Nhậm làm Tả thị lang bộ Lại, tước T́nh phái hầu, lại cho đứng đầu tất thảy quan lại cựu triều. Không riêng Ngô Th́ Nhậm, mà với Phan Huy Ích, Nguyễn Bá Lan, Vũ Huy Tấn…, Nguyễn Huệ đều đón nhận và không câu nệ mới cũ. Đối với Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ dành một sự biệt đăi khác thường, ba lần gửi thư mời kèm theo lễ trọng, lời thư trước sau một mực thiết tha tôn kính. Nguyễn Thiếp nặng ḷng với nhà Lê, ba lần từ chối. Măi đến khi Lê Chiêu Thống rước quân Thanh về nước, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy hiệu Quang Trung rồi xuất binh ra Bắc đánh quân xâm lược, Nguyễn Thiếp mới chịu thừa nhận chính nghĩa Tây Sơn. Khi Nguyễn Huệ dừng ở Nghệ An lấy quân, Nguyễn Thiếp ra gặp Nguyễn Huệ và nói: "Bây giờ trong nước trống không, ḷng người tan ră. Quân Thanh ở xa tới đây không biết t́nh h́nh quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rơ nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công ra đi chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan". Thật ra, với quyết tâm và phương lược đă định để đánh giặc Thanh, dù Nguyễn Thiếp có nói ngược Quang Trung vẫn không đổi chí, song lời bàn ấy khiến ông vô cùng vui mừng coi đây là dấu hiệu tốt đẹp đầu tiên trong quan hệ giữa ông với La Sơn phu tử. Khi chiến thắng trở về, ông đă ghé Nghệ An thăm Nguyễn Thiếp và cảm tạ: "Người xưa có nói: một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời tiên sinh quả có thế thật." Quang Trung lại kiên tŕ thuyết phục nhiều lần nữa, và cuối cùng, dường như sự dịu dàng bền bỉ của nước đă thấm đượm vào từng thớ đá, Nguyễn Thiếp bằng ḷng hợp tác, đầu tiên là giúp vua chấm thi, coi đất, rồi nhận lời ra làm viện trưởng viện Sùng Chính. Cần nói thêm rằng Quang Trung lập viện Sùng Chính ở Nghệ An, là ông đă hiểu đối tượng ở những chỗ vi tế nhất. Với một chức vụ thiên về giáo dục hơn là chính trị, mà La Sơn phu tử đă từng dạy học, người ta sẽ không thấy bỡ ngỡ khi ông ra dịch sách hay đào tạo nhân tài, do vậy Nguyễn Thiếp có thể yên tâm làm việc mà không sợ suy giảm thanh danh. Nếu không có tấm ḷng rộng răi, hết mực yêu sĩ chuộng hiền, chắc chắn Quang Trung không thể đưa nhà ẩn sĩ đất La Sơn trở lại với đời, để "hưng khởi chính học", "khiến cho nhân tài có thể thành tựu", "phong tục trở lại tốt đẹp" như ông từng mong muốn.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đă rất có lư khi nhận định: "Như thể rằng Nguyễn Huệ đă quên đi sức mạnh sấm sét của ḿnh để sống với người tài bằng một quả tim lớn (…) Nguyễn Huệ đă buộc những người trí thức hoài nghi phải tin theo ông, bằng cách cho họ thấy rằng ông trao cả niềm tin cho họ, không chật hẹp, không dè chừng, không phân biệt".

Khác với Trịnh Sâm dùng người cốt để thỏa măn quyền giá ngự của ḿnh (Việt sử thông giám cương mục chép: "Sâm tự cậy tài cán, cho rằng trong thiên hạ không việc ǵ là không thể làm được, trăm quan không người nào là không thể giá ngự được"), Quang Trung - Nguyễn Huệ đối với kẻ sĩ bằng sự chân thành. "Tùy tài mà bổ dụng" đó là chủ trương hết sức sáng suốt của Nguyễn Huệ. Ông tỏ ra nắm chắc khả năng thuộc cấp và t́m ra chỗ bố trí hợp lư nhất để mỗi người có thể phát huy hết khả năng của ḿnh. Đúng như lời ông tuyên bố về Ngô Th́ Nhậm: "Đây là người do ta gây dựng lại!", ông đă tái tạo lại cả một tầng lớp nho sĩ, tạo cho họ cơ hội giúp đời.

"Sao tất phải chầu về Bắc thần. Người hiền tất phải do thiên tử sử dụng" - Ngô Th́ Nhậm đă viết như thế để mở đầu bài Chiếu cầu hiền. Trong thâm tâm, Ngô Th́ Nhậm đă coi vua Quang Trung là một vị vua xứng mặt thiên tử, hơn nữa, thiên tử của người hiền và ông dốc ḷng báo đáp: "Đại để vua tôi chủ ở nghĩa, cha con chủ ở ơn, cái luân lư lớn của đạo làm người chỉ là một. Nhưng vua biết tôi, cha biết con, đối với sự cảm kích cái ơn cái nghĩa lại phải thế nào?" (Lời dẫn của Ngô Th́ Nhậm trước bài thơ Sóc vọng thị tấu nhạc Thái tổ miếu cung kư).

Có thể nói rằng Quang Trung - Nguyễn Huệ là một lănh tụ nổi tiếng về có sức cảm hóa và chinh phục được nhiều bậc kỳ tài trong thiên hạ. Khi ông băng hà, không có người đủ tầm vóc kế tục nên những bầy tôi lương đống đă trở thành kẻ bơ vơ. Danh thần Phan Huy Ích đă thốt lên tiếng nấc tận đáy ḷng: "Tao tế cơ duyên nan tái đắc/Ṭng kim kư lữ nhạn thần cô" (Duyên may gặp gỡ khó có được lần nữa - từ nay ở quê người thần như chiếc nhạn cô đơn).

Sau khi Quang Trung mất, Ngô Th́ Nhậm ngẫm lại và thấy rằng đó là một ông vua hiếm có. Đêm đêm ḷng quặn đau, ông đă khóc Quang Trung với tấm ḷng tri kỷ, ly rượu trên tay ngậm giọt nước mắt của bậc cô thần rơi xuống: "Lệ lạc hàm bôi dạ dạ tâm" (Thơ Ngô Th́ Nhậm).

Măi đến năm 1797, tức là 5 năm sau khi vua Quang Trung từ trần, Ngô Th́ Nhậm c̣n mơ thấy nhà vua về gọi ḿnh bàn việc nước. Ông kính cẩn chép: "Mùa xuân năm Đinh Tỵ, tôi bị ốm nằm mộng thấy Tiên đế ngự ra Bắc thành, tôi hầu thảo chiếu thư. Câu cuối cùng ngự bút chữa là "Trẫm lạc nhân hoàn lưu chính trị" (trẫm xuống cơi đời lưu chính trị), rồi ngoảnh lại bảo tôi: Trẫm thêm bảy chữ, ngươi thấy thế nào? Tôi khấu đầu khen hay" (Lời dẫn của Ngô Th́ Nhậm trước bài thơ Khâm văn Đan Dương lăng). Chết cũng như sống, t́nh vua tôi vẫn nồng nàn tương đắc. Ḷng thương nhớ của Ngô Th́ Nhậm đối với Quang Trung thật là mănh liệt. Song câu chuyện này không chỉ để gửi ḷng thương nhớ, cái chính là Ngô Th́ Nhậm qua đó ngầm khuyên Cảnh Thịnh đừng để xói ṃn nền chính trị mà vua cha đă xây dựng trên cơ sở "chí nhân đại nghĩa", "hậu trạch thâm ân". Ngô Th́ Nhậm vô hạn cô đơn khi vị vua chân chính hiểu ông và trọng dụng ông đă mất. Trước Cảnh Thịnh, ông cảm thấy ḿnh là thuyền côi giữa sóng (cô chu), là núi bên trời quạnh quẽ (cô sơn), là thông đứng một ḿnh (cô tùng). Ông quyết định rút khỏi quan trường, đi vào nghiên cứu những huyền bí của cơi thiền.

Nguyễn Thiếp khi hay tin Quang Trung từ trần, đă viết những lời rút ruột trong một tờ biểu gửi về triều, như để nhận lỗi trước vong linh người quá cố: "Trông về quyết đ́nh ở phương Nam thêm thảm thiết khôn xiết… Tấm ḷng gắn bó chưa lấy ǵ bày tỏ được". Những ḍng tiếp theo như sự sịch mở của một cánh cửa trầm tịch, mà đằng sau nó là cả một cơi riêng chưa từng hé lộ: "Nay sự ninh lăng đă xong, xin cẩn thận cho tử đệ vào thay, dâng biểu này để bộc bạch tấm ḷng thành thật, giải tỏ một phần tấc riêng ngưỡng mộ và đau xót".

Đây là lần đầu Nguyễn Thiếp nói về Quang Trung với tư cách cá nhân. Suốt bao nhiêu năm khuôn ḿnh theo Khổng giáo, Nguyễn Thiếp đă tự đặt ḿnh trong cái ràng buộc của những quan niệm mang tính chuẩn mực, với ư thức ḿnh là kẻ phát ngôn cho đạo lư, cái đạo lư mà ông không biết rằng đă quá lỗi thời và trở thành trở lực của sự phát triển. "Chút mang danh giá báu trên đời", ông luôn nhân danh sĩ phu Bắc Hà khi giao thiệp với Quang Trung, v́ vậy ông đă che giấu t́nh cảm riêng tư, để tiếng nói của ḿnh hợp đạo. Thế rồi Quang Trung mất, ông bàng hoàng nhận ra con người ấy không chỉ từng tồn tại trước ông, mà đă thâm nhập vào tâm hồn ông một cách sâu sắc đến chính ông cũng không ngờ được. Từ lâu, con người ấy luôn cố t́m nơi ông tiếng nói tri âm, nhưng ông quá câu nệ và để lỡ rất nhiều điều. Nỗi ân hận đă buộc ông phải bộc bạch, phải giải tỏ để bớt ray rứt lương tâm.

Khi nhà Tây Sơn mất, những văn thần vơ tướng mà Quang Trung từng hiểu và dành cho họ sự trân trọng, không một ai phản bội lại ông. Nguyễn Thiếp quay về cuộc sống ẩn sĩ. Trần Văn Kỷ trốn về quê, Nguyễn Ánh cho quân bắt đến gặp và mời hợp tác, ông xin về thu xếp việc nhà, rồi ngồi thuyền xuôi sông Hương, đến ngả ba Śnh gieo ḿnh tự vẫn. Ngô Th́ Nhậm và Phan Huy Ích cùng nhiều đại thần Tây Sơn bị Gia Long - Nguyễn Ánh hạ ngục rồi đem ra đánh đ̣n tại Văn miếu; Ngô Th́ Nhậm bị đánh đến chết. Đô đốc Tuyết và vợ hy sinh trong trận chống quân Nguyễn tại thành Xương Giang năm 1801. Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Phan Văn Lân làm thân hạc nội mây ngàn. Vơ Văn Dũng quay về Tây Sơn thượng đạo đau đáu một niềm báo phục không thành, ôm hận lên núi Xanh biệt tích. Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và rất nhiều tướng sĩ Tây Sơn bị Nguyễn Ánh xử cực h́nh, đă không đổi sắc mặt khi nhận cái chết giữa pháp trường. Nữ tướng Bùi Thị Xuân trước giờ chết đến vẫn hiên ngang đối đáp cùng Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh hỏi: "Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?". Bà đáp: "Tiên đế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ đồ, c̣n nhà ngươi trốn chui trốn nhủi phải cầu viện ngoại bang. Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ thất thế như đă đối xử với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi của nhà ngươi; c̣n nhà ngươi dụng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt hết ḷng v́ chúa, chẳng nghĩ rằng ai v́ chúa nấy. Ngươi sánh với Tiên đế ta sao được?".

Tinh ba tú khí của non sông và mấy ngh́n năm văn hiến Việt đă sản sinh ra những con người vĩ đại mà Quang Trung - Nguyễn Huệ là một. Ông là người đă khơi dậy cái nghĩa thâm viễn của những tâm hồn tri âm hạnh ngộ để nó song hành cùng nghĩa vua tôi. Từng văn thần vơ tướng dưới triều đại Quang Trung đă có diễm phúc cảm nhận bên cạnh nhịp đập của trái tim họ là nhịp đập trái tim của một lănh tụ sáng suốt, bao dung và kiệt xuất. Ông là một lănh tụ chân chính, một người vun trồng nhân cách thời đại bằng trái tim không ngừng thao thức, bằng trí tuệ đổ mồ hôi và bằng sự xác lập nhân cách của bản thân ḿnh. Trong bàn tay ông, không một giá trị nào bị lăng phí. Đó là lư do v́ sao ngay cả sau khi ông không c̣n nữa, h́nh bóng ông vẫn sống trong trái tim những người cộng sự, để rồi, cùng với sự tỏa sáng nhân cách và khí phách của họ giữa hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, giữa sự lựa chọn khắc nghiệt nhất, họ đă làm ông trở thành bất tử trong trái tim dân tộc.

TRẦN THỊ HUYỀN TRANG

 

 

Cánh tay đắc lực của vua Quang Trung: Ngô Th́ Nhậm và Đặng văn Long

Ts. Cai Văn Khiêm

Chiến thắng Đống Đa! Hơn trăm năm qua, chiến tích này đă đi sâu vào ḷng dân Việt Nam, như một biểu tượng cho sự thành công của nhà Tây Sơn. Đây là chiến thắng mà vua Quang Trung và nhà Tây Sơn, đánh đuổi 200 ngàn quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cơi. Chiến thắng này đă làm cho nhà Thanh kinh hăi từ bỏ mộng xâm chiếm Việt Nam, và là những trang vàng son trong lịch sử nước nhà. Trong những lần tổ chức lễ Đống Đa trước đây, chúng tôi thường xếp hai đại công thần để đứng hai bên vua Quang Trung trong buổi tế lễ. Nhà Tây Sơn có nhiều tướng tài, nhưng chúng tôi muốn t́m hai đại công thần, một văn một vơ, đă có công trạng trực tiếp trong chiến thắng Đống Đa. Chúng tôi xem lịch sử và nhận xét rằng, hai người có tên tuổi gắn liền với chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu là Ngô Th́ Nhậm và Đặng Văn Long. Trong cuộc đối địch với nhà Thanh, Ngô Th́ Nhậm có thể xem như là quân sư của vua Quang Trung. Những chiến thuật đối đầu và hoà hoăn với nhà Thanh đă được lịch sử nhắc đến nhiều lần, và danh tiếng của Học sĩ họ Ngô bao giờ cũng gắn liền với lịch sử Tây Sơn. C̣n vị vơ tướng đă chấp hành chiến thuật tốc chiến tốc thắng là Đặng văn Long th́ ít khi được nhắc đến. Họ Đặng đă giải quyết chiến trường tại bản doanh địch, dồn Sầm Nghi Đống phải tự tử tại Đồi Đống Đa. Chỉ trong mồng 4 tháng giêng năm Kỷ Dậu, ông đă tiêu diệt toàn bộ quân Thanh tại Khương Thượng, rồi tiến vào Thăng Long đột ngột, làm Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ bỏ chạy. Chiều mồng Năm Tết, chính Đặng Văn Long đón vua Quang Trung vào thành Thăng Long trước kỳ hạn hai ngày. Ngô Th́ Nhậm và Đặng Văn Long là hai cánh tay đắc lực nhất của vua Quang Trung trong việc đối địch với nhà Thanh.

Học Sĩ Ngô Th́ Nhậm

Năm 1788, khi vua Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần thứ nh́ để diệt Vũ Văn Nhậm, th́ một nho thần xứ Bắc đă được người anh hùng xứ Qui Nhơn cảm mến: Đó là Ngô Th́ Nhậm. Vừa gặp nhau vua Quang Trung đă trọng dụng vị nho thần nầy, và đây là bước đi vô cùng quan trọng trong việc trị nước và đương đầu với một đại cường quốc phương Bắc. Ngô Th́ Nhậm, tự là Hy Doăn, hiệu Đạt Hiên, sinh quán tại huyện Thanh Tŕ thuộc tỉnh Hà Đông, là con trai của cụ Ngô Th́ Sĩ (đậu tiến sĩ, làn quan Đốc Đồng dưới nhà Lê). Ngày thôi nôi của Nhậm cụ Sĩ đă viết một số tên thuộc bộ Nhân để cho Nhậm chọn tên. Sau khi Nhậm chọn xong, cụ đă dùng phương pháp chiết tự và đoán rằng sau Nhậm có tương lai rực rỡ, nhưng phải chết bất đắc kỳ tử. Lớn lên Nhậm học hành rất thông minh, và có tư tưởng rất cởi mở, không chịu ràng buộc cũ kỹ của xă hội. Năm lên chín đă biết làm thơ và câu đối. Có một ngày ông theo cha lên chùa. Ông đứng lảng vảng trong sân chùa đọc được hai câu đối: ‘’Khuyến thiện trừng dâm - Cứu nhân độ thế.’’ Nhậm cho đây là lời khuyên giả nhân giả nghiă, v́ đă từng nghe câu ‘’Cửa Phật mất một đền mười’’ và nhà sư mang tiếng là người không hiền lành. Nhậm thuận tay viết thêm chữ vào hai câu đối trên như sau: Khuyến thiện trừng dâm, ai đẻ tháng tư mùng tám? Cứu độ thế nhân, của nhà ai mất một đền mười? Nhà sư thấy khẩu khí ngang ngược, nhưng lư lẽ vững chắc, đành xoá câu đối ở chùa. Năm hai mươi chín tuổi, ông đổ tiến sĩ, làm quan nhà Lê đến chức Công Bộ Hữu Thị Lang. Qua những nhận định về người Tây phương thường qua lại buôn bán với Việt Nam, ông dâng sớ lên phủ chúa Trịnh, đề nghị gởi nhân tài sang Âu Châu học về kỹ nghệ và văn hoá của họ. Chúc Trịnh đưa sớ này cùng duyệt xét với các đại thần nhưng các lăo thần v́ bảo thủ đă bác bỏ, và cho là Nhậm là người có tư tưởng viễn vông. Khi chúa Trịnh Sâm lập con thứ làn thế tử th́ người con trưởng là Trịnh Khải mưu đồ với nhân sỉ Sơn tây và Kinh Bắc định cướp ngôi sau khi Trịnh Sâm qua đời. Mưu mô nầy đến tai Nhậm nên ông tố giác khiến Trịnh Khải bị hạ ngục. Đến Trịnh Khải phục hưng th́ Ngô Th́ Nhậm sợ bị trả thù nên trốn chạy về quê vợ ở Sơn Tây ẩn núp, thay tên đổi họ làm nghề dạy học. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nh́, Nhậm cảm phục khí phách phi phàm của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, ông nhờ Trần Văn Kỷ (người phụ trách thu dụng nhân tài của nhà Tây Sơn, và cũng là bạn cũ của ông) tiến cử. Gặp ông Kỷ liền bảo: - Cố nhân đến đúng lúc, Bắc B́nh vương mến mộ cố nhân, sai tôi đi t́m. Bỗng không mà gặp. Sáng hôm sau Nhậm hội kiến Bắc B́nh vương. Nh́n phong cách đàng hoàng, ngôn từ thẳng thắn, lư luận vững chắc, Nguyễn Huệ rất hài ḷng nói: - Chúa Trịnh không biết dùng người nên bỏ phí đi một nhân tài. Có lẻ trời dành người này cho ta đó. Bắc B́nh vương phong Ngô Th́ Nhậm làm Tinh Thái Hầu, giữ chức Tả Thị Bộ Lại cùng với Vơ Văn Ước coi tất cả quan văn vơ nhà Lê. Cảm kích sự trọng dụng nhân tài và t́nh tri ngộ, Nhậm tiến cử hết những người có tài để Bắc B́nh vương sử dụng. Những người này đều được trọng dụng như Phan Huy Ích, Nguyễn thế Lịch v.v... Sau khi phối hợp triều đ́nh giám quốc của nhà Lê, vương giao quyền quân sự cho Ngô văn Sở và quyền chính trị cho Ngô Th́ Nhậm rồi về Nam. Trước khi rời xứ Bắc ngài gọi các quan văn vơ đến và dặn rằng: - Sở, Lân là nha trảo của ta. Dụng, Ngôn là tâm phúc của ta, c̣n Nhậm là tân thần. Nay ta giao việc quốc quân mười một trấn ở Bắc Hà cho các khanh, cho phép các khanh được tiện nghi hành sự. Nhưng phải hội đồng thương nghị với nhau, đừng lấy lẽ mới cũ mà chống đối. Ấy là hậu vọng của ta. Lời giáo huấn này chẳng những nhắc nhở đến tinh thần đoàn kết trong hệ thống chính quyền mà c̣n xác định ở sự tin tưởng ở một tân thần, chinh phục sự tin tưởng của Ngô Th́ Nhậm. Gặp Nhậm một lần mà đă tin dùng, không chút ngờ vực, Bắc B́nh vương chẳng những là người có mắt xanh mà là con người rất tự tin. Cuối năm Mậu Thận, nhà Thanh đem hai mươi vạn quân sang đất Bắc, với danh nghiă là phù Lê để chiếm nước ta. Đại Tư Mă Ngô Văn Sở hội họp các quan thương nghị về chương tŕnh chống địch. Sở và Lân có vẻ đồng ư. Duy chỉ có Ngô Th́ Nhậm là muốn rút binh: - Đánh lúc này là thất sách quân địch mới tới, khí thế đang hăng, lại được vua tôi nhà Lê làm nội công th́ giặc biết hết t́nh h́nh trong nước, đường sá lại có người chỉ dẫn. Huống hồ chúng lại đưa vào danh nghiă phù Lê trong khi chúng ta vẫn chưa được ḷng dân Bắc Hà. Đánh sẽ không thắng được đâu. Chi bằng chúng ta rút hết quân thuỷ bộ về đóng giữ từ Tam Điệp ra đến biển để bảo toàn lượng chờ đợi đại quân. Quân địch sang đây phải bôn ba ngàn dặm, vào đây dễ dàng sinh khinh thường mà đâm ra ăn chơi biếng nhác. Khi đại quân ta đến th́ lúc đó quyết chiến cũng không muộn. Ngô Văn Sở e ngại rằng giặc đến, chưa đánh đă chạy sợ mang tội với Bắc B́nh vương. Nhưng Nhậm biết t́nh h́nh quan trọng nên đề nghị một cách dứt khoát: - Lương tướng ngày xưa, lượng sức giặc rồi mới định việc công hay thủ. Hăy lui binh về Tam Điệp đi. Nếu Bắc B́nh vương hỏi tội, tôi xin chịu hết trách nhiệm. Ông cứ yên tâm. Trong khi Sở chuẩn bị đem quân lui về Tam Điệp, có tin quân Thanh đă qua khỏi ải Nam Quan, Nội Hầu Phan Văn Lân giận quá thừa đêm tối đem quân chận đánh. Không ngờ thua lớn phải chạy về. Ngô Văn Sở nghe tin quyết định: - Phải cấp tốc hoàn thành kế hoạch chuyển quân của Ngô Th́ Nhậm để bảo vệ lực lượng. Quân ta đội ngũ nghiêm chỉnh rút về Tam Điệp. Một tháng sau khi vua Quang Trung đem đại binh đến Tam Điệp, các quan Sở, Lân và Nhậm ra chịu tội. Nhà vua cười và bảo: - Các ngươi là vơ tướng nhưng thiếu mưu. Khi rời đất Bắc ta để lại Nhậm làm tham tán quân vụ là có ư vậy. Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích sĩ khí, ngoài phản kích ḷng kêu ngạo của giặc... Việc lui quân về đây, giữ một phần xứ rồi hợp với đại quân là chiến pháp đúng hơn cả. Nghe đô đốc Tuyết nói ta biết ngay là mưu của Nhậm rồi... Nói xong, ông tự tay rót ba chén ngự tửu đăi Nhậm: - Nếu không có khanh bày kế ‘’dĩ dật đăi lao’’ cho giặc Thanh kiêu, cứ để Cho Sở, Lân vác giáo đánh liều th́ khi ta ra Bắc, quân ta bị bại, nhuệ khí đă chẳng c̣n, sẽ khó mà thắng... Chúng nó sang phen này là mua lấy cái chết mà thôi. Ta ra chiến nầy thân coi việc quân đánh giữ, đă định mẹo rồi. Đuổi quân Tàu chẳng qua mười ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù. Như thế là đánh mải không thôi, dân ta hại nhiều, sao ta nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Th́-Nhậm dùng lời nói cho khéo để đ́nh chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, th́ ta không c̣n phải sợ chúng nữa. Biết tiến biết thoái, Ngô Th́ Nhậm đă dùng chiến pháp thứ nhất trong binh pháp Tôn Tử để chuẩn bị cho chiến trường phương Bắc. Quyết định lui quân về Tam Điệp có thể xem như là một công trạng đáng kể trong cuộc chiến thắng quân Thanh. Tuy họ Ngô không phải là vơ tướng, ông quả là chiến lược gia xuất chúng có tầm nh́n xa mà chỉ có vua Quang Trung mới hiểu được. Quả là tri âm tri kỷ hiếm thấy trong lịch sử. Sau chiến thắng Đống Đa th́ trách nhiệm Ngô Th́ Nhậm nặng nề bội phần: Giảng hoà với nhà Thanh để đem lại sự độc lập và hoà b́nh lâu dài. Chiến thắng Đống Đa dầu có oai hùng, vẫn chưa thể nào kết liễu được chiến tranh với nhà Thanh. Một phần nhà Thanh là một nước lớn trong triều đại cực thịnh, một phần v́ ḷng dân phương Bắc vẫn chưa hẳn ủng hộ vào triều Tây Sơn. Sau cuộc thảm bại mùa xuân Kỷ Dậu, vua Càn Long nhà Thanh rất tức giận, tính dùng lực lượng chín tỉnh với hơn nữa triệu quân, định xâm lăng nước ta lần thứ nh́. Để tránh cuộc chiến này, và để t́m hoà b́nh lâu dài với nhà Thanh, vua Quang Trung giao trọng trách đối ngoại cho họ Ngô. Ngô Th́ Nhậm viết lên một lá thư gởi vua Càn Long của Nhà Thanh. Lá thư này lời lẽ rất uyển chuyển, khi th́ khiêm nhường, khi th́ lư luận sắc bén, kết luận có nét cứng rắn hiên ngang tự trọng. Bức thư này xác nhận lập trường của nước Nam mong muốn sự hoà b́nh độc lập, nhưng không sợ hăi bất cứ thế lực ngoại bang nào. Bức thư cũng nhắc nhở đến các nỗi điêu linh của chiến tranh và đề nghị việc kết giao giữa hai nước, tránh việc chinh chiến. Ngô Th́ Nhậm hiểu rằng một lá thư không thể giải quyết mọi vấn đề, nhất là khi có liên quan đến danh dự vua Thanh. Họ Ngô lại nhờ các đại thần nhà Thanh như Phúc An Khang và Thang Hùng Nghiệp vận động với các hoàng thân, yêu cầu vua Càn Long giảng hoà. Cuộc bang giao Việt-Thanh trở thành trang sử lư thú, Càn Long chẳng những đồng ư việc cầu phong, khi nghe vua Quang Trung thích nhân sâm, lại đem những nhân sâm hảo hạng trong hoàng cung đem tặng. Sau đó ông lại yêu cầu vua Quang Trung đích thân sang thăm, và c̣n có ư định gả công chúa. Những hậu đải nầy chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nước ta sau một cuộc chinh chiến. So với đời Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, sau khi chiến thắng nước ta đều phải tạ tội, chỉ riêng nhà Tây Sơn nước ta đă không dùng lời lẽ tạ tội mà dùng lư luận trong tự trọng để thuyết phục nhà Thanh. Chính sự tự trọng nầy đă tạo được sự cảm mến của vua Càn Long, và là yếu tố chính duy tŕ sự hoà b́nh giữa hai nước. Trong Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn nhận xét rằng việc vua Càn Long nể trọng vua Quang Trung là hiện tượng anh hùng nể trọng anh hùng. Càn Long là một vị vua lừng danh của nhà Thanh, tính t́nh phong lưu mă thượng, vơ công cái thế lại thường ưa phiêu lưu trong giang hồ. Nay lại nghe tên người tài, đọc thư thấy nét khí khái, đâm ḷng ngưỡng mộ và hậu đăi. Từ đó nhà Thanh không c̣n xâm lăng nước ta. Kể từ chiến thắng Đống Đa đến măi sau này khi Trung Cộng tấn công Bắc Việt, Việt Nam và Trung Hoa giữ được niềm hoà khí đến ngót hai trăm năm. Hiện tượng anh hùng trọng anh hùng không phải là mới mẻ, chính là người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ đă mến trọng vị anh hùng phương Bắc Ngô Th́ Nhậm. Việc tuyển dụng và trọng dụng nhân tài là một yếu tố quan trọng nhất của một quản trị gia. Đây là một khả năng hiếm có của vua Quang Trung. Họ Ngô trở thành mưu thần đắc lực cho nhà Tây Sơn. Những chiến thuật của Ngô Th́ Nhậm vĩnh viễn được ghi trong những trang sử Tây Sơn. Chính những công trạng ấy xác định rằng nhà Tây Sơn và chiến thắng Đống Đa không chỉ là niềm hảnh diện trong khuôn khổ phạm vi con dân tỉnh B́nh Định mà là của toàn dân Việt Nam - từ Nam ra Bắc.

Anh Hùng Đặng Văn Long

Cuối năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế rồi trực chỉ Bắc Hà. Trên đường đi, vua dừng chân tại Nghệ An để tuyển mộ thêm binh sĩ, trữ thêm lương thực và tập luyện tân binh. Một hôm vua thấy trong đám tân binh đồng phục đỏ, có một tráng sĩ ḿnh mặc áo trắng, lưng đeo cung tay cầm kích biểu diễn tài nghệ vừa đẹp lại vừa hùng. Vua lấy làm lạ gọi đến. Khi vua nhận diện được tráng sĩ, vua liền nhăy xuống voi chạy đến, cầm tay nói: - Cố nhân! Mọi người ngạc nhiên, hỏi nhau người đó là ai. Người tráng sĩ áo trắng ấy là Đặng Văn Long. Đặng Văn Long tự là Tử Vân, người huyện Tuy Viễn tỉnh Qui Nhơn. Lúc thiếu thời, tinh thông về môn cương quyền (ngạnh công). Sau đó, theo học thầy Trương Văn Hiến miên quyền (nhuyễn công) ngót 5 năm mới thành tài. Người trong vơ lâm không ai địch nổi nên tôn là Đặng Vô địch. Đặng c̣n có biệt hiệu là Đặng Thiết Tư v́ ông có sức mạnh vô song; nằm dưới đất dùng hai tay đỡ một cỗ xe chở nặng. Họ Đặng giang hồ đó đây, tiêu dao ngày tháng không gặp đối thủ. Khi nghe tin vua Quang Trung đưa quân ra Bắc Hà đánh nhà Thanh, ḷng yêu nước trào lên, Đặng không ngại ngùng ṭng quân nhập ngũ. Vua Quang Trung gặp được người bạn đồng môn tài ba xuất chúng mừng lắm, liền phong họ Đặng làm chức Đại Đô Đốc cùng ngài ra Bắc dẹp quân Thanh. Đặng Văn Long có những nét như Triệu Tử Long thời Tam Quốc. Quân phục Tây Sơn mặc màu đỏ, c̣n ông lại cởi ngựa trắng mặc chiến bào trắng. Khi ra trận ông cởi ngựa đi đầu đánh thẳng vào vị trí địch không ai cản nổi, quân sĩ hùng khí dâng lên tiến theo giết giặc. (Có sử cho rằng v́ ông tự thị tài cao, muốn làm nổi, lại muốn lập công nên mặc đồ trắng cho vua Quang Trung dễ nhận diện. Điều nầy có lẻ không đúng, v́ lời phê b́nh nầy dựa trên căn bản cảm tưởng. Những kẻ giang hồ không trọng chuyện quan trường, hà tất chuyện làm nổi. Vả lại xét theo tuổi tác và vơ thuật, họ Đặng có thể là sư huynh của Nguyễn Huệ hơn là sư đệ của nhà vua). Gặp nhau tại Tam Điệp, Phan văn Lân mừng rỡ hàn huyên tâm sự, nhắc đến khoảng thời gian cùng học. Khi hỏi về thầy giáo Hiến, Lân bảo: - Thầy ra giúp vua Thái Đức một thời gian rồi lui về An Thái dưỡng lăo, từ ấy việc nước bận rộn tôi không có dịp thăm thày, mà cũng không tin tức của thày. Không biết thày có khỏe mạnh như xưa không. Long nói: - Hơn mười năm nay tôi mải miết giang hồ, cũng không lo tṛn nghiă sư đệ. Nhưng nếu chuyến này đánh đuổi được giặc xâm lăng th́ chắc thày cũng mừng rằng công dạy dỗ cũng không đến nỗi uổng. Tại Tam Điệp, vua Quang Trung nghiên cứu địa thế, lực lượng địch rồi chia quân làm năm đoàn. Tiền quân do Đại Tư Mă Sở và Nội Hầu Lân chỉ huy. Tả quân do Đại Đô Đốc Lộc và Đại Đô Đốc Tuyết chỉ huy. Tuyết c̣n Nhậm vụ tiếp ứng mặt Đông, và Lộc chặn đường giặc rút quân ở Lạng Sơn. Hữu quân do Đại Đô Đốc Bảo và Đại Đô Đốc Long chỉ huy, Nhậm vụ đánh thẳng vào Nhân Mục, Khương Thượng và chiếm Thăng Long. Hậu quân do Hô Hổ Hầu đốc chiến. Trung quân đích thân nhà vua chỉ huy đánh vào vị trí chủ lực quân Thanh tại Hà Hồi, Ngọc Hồi. Viên phó tướng của Đặng Văn Long là Đặng Tiến Đông. Ông là người trí dũng, trước làm quan triều chúa Trịnh, sau qui thuận nhà Tây Sơn. V́ sinh trưởng ở Lương Xá, gần Thăng Long nên ông am hiểu địa h́nh, đường lối vùng Thăng Long và lân cận. Nhờ sự chỉ dẫn, Đại Đô Đốc Long đưa quân đi đường tắt đưa mă binh và tượng binh từ huyện Chương Đức đến huyện Thanh Tŕ. Khác với chiến thuật b́nh thường, Đô Đốc Long đưa quân về hướng Đông Bắc và đánh thẳng về Nam để địch quân không đường rút lui và hoang mang dao động. Trước hết quân ta chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục là hai tiền đồn ở Tây Bắc của thành Khương Thượng. Với vơ nghệ tuyệt luân ông dẫn quân đột kích một cách im ĺm và nhanh chóng không để một tên quân nào trốn thoát về báo tin. Nửa đêm mồng 4, quân Đô Đốc Long và đội voi chiến đă bọc về hướng Đông Nam vây đồn Khương Thượng. Trong đồn vẫn chưa hay biết, quân Đô Đốc Long được dân chúng ủng hộ dùng rơm khô bện lại, tẩm dầu chuẩn bị. Khi Đô Đốc Long ra lệnh, tất cả quân dân ḥ hét châm lửa cùng một lúc, bốn phiá đồn đều có ánh lửa hừng hực và tiếng ḥ hét vang trời. Quân Thanh hoảng vía không c̣n sức chống đỡ. Tướng nhà Thanh là Đề Đốc Sầm Nghi Đống chưa kịp đối phó th́ Đô Đốc Long dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn phá thành, sức mạnh như chẻ tre vào thành giết giặc như chổ không người. Không chịu nổi sức quân như nước vỡ đê, quân Thanh trong đồn chết quá nửa. Sầm Nghi Đống không chống nổi dẫn tàn quân chạy về Thăng Long. Chạy đến g̣ Đống Đa, giữa đường đến Thăng Long, th́ bị quân ta truy sát gấp rút. Sầm Nghi Đống sợ hăi quá thắt cổ tự vẫn, c̣n số tàn quân chạy về phiá Nam. Họ chạy đến Đầm Mục th́ bị quân Đô Đốc Bảo tiêu diệt hết. Sau khi tiêu diệt quân Thanh và đuổi xong Sầm Nghi Đống ở Đống Đa, Đô Đốc Long tiếp tục tiến vào cửa Tây thành Thăng Long.Tại Tây Long cung ở Thăng Long, nguyên soái nhà Thanh Tôn Sĩ Nghị đang chú tâm theo dơi mặt trận phiá Nam, không ngờ có mặt trận khác đang diễn ra ở mé sườn bên cạnh. Sáng sớm mồng 5 Tết, th́ vua Quang Trung đưa đạo quân chủ lực tấn công đồn Ngọc Hồi là đồn kiên cố nhất của quân Thanh. Nhưng cũng chính thời điểm nầy th́ Đô Đốc Long đă đưa quân Tây Sơn vào cửa Tây thành Thăng Long. Đến lúc đó Tôn Sĩ Nghị mới nghe tin báo. - Đồn Khương Thượng đă bị tiêu diệt, quân Tây Sơn đă kéo vào cửa Tây thành Thăng Long và đang tiến vào đại bản doanh. Tôn Sĩ Nghị c̣n đang lúng túng, chưa biết liệu thế nào th́ binh Đô Đốc Long đă tiến vào Tây Long, sát khí ngùn ngụt. Nghị hoảng sợ quá, không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, hớt hải cùng toán kỵ binh bỏ cung Tây Long, vượt cầu phao chạy qua sông Nhị Hà. Binh sĩ thấy tướng bỏ chạy, chen lấn chạy theo chân. Cầu phao chịu không nổi sức nặng, bị đứt dây ném tung hằng ngàn quân Thanh xuống sông. Cuối mùa Đông nước sông chảy rất gắt, quân Thanh chết vô số kể, số c̣n sống kinh hoàng không c̣n sức kháng cự. Tôn Sĩ Nghị cố chạy về ải Nam Quan, nhưng liên tục bị đô đốc Lộc chận đường truy sát. Sợ hăi đến cùng cực, Nghị phải vứt bỏ các sắc thư, ấn tín để chạy thoát thân. Chạy bảy ngày đêm mới qua khỏi ải Nam Quan. Sĩ khí không c̣n, nghị lực cũng mất hết. Chiều mồng năm Tết, Đô Đốc Long mở cửa thành Thăng Long. Ngọn cờ đỏ mặt trời vàng tung bay phất phới đón mừng vua Quang Trung vào thành ăn mừng chiến thắng. Vua Quang Trung và nhà Tây Sơn đă dẹp tan 20 vạn quân Thanh trước kỳ hẹn hai ngày. Xem công trạng Đô Đốc Long, quả ông là một dũng tướng với chiến thuật tốc chiến tốc thắng. Chiến thuật sấm sét này uy hiếp tinh thần địch thủ, dồn địch thủ vào sự hoảng hốt chỉ nghĩ đến chuyện thoát thân. Chỉ một đêm quân ông ép Sầm Nghi Đống tự tử tại Đống Đa. Trong một buổi sáng quân ta dồn Tôn Sĩ Nghị vào đường phải trốn chạy. Chiếm Thăng Long ông đă làm lung lay ḷng địch tại đồn Ngọc Hồi, để quân t́nh hổn loạn không c̣n sức kháng cự. Cứ mỗi mùa xuân chúng ta vẫn nhắc đến chiến thắng Đống Đa, nơi Sầm Nghi Đống bị ép vào đường tự tử. Có lẻ chúng ta cũng nhớ đến một cận tướng của vua Quang Trung đă trực tiếp giải quyết chiến trường nầy và có công không nhỏ trong việc đánh đuổi quân xâm lăng nhà Thanh. Đặng Văn Long sau trận Đống Đa th́ đă có ư lui gót. Nhưng mấy kẻ bề tôi của Lê Chiêu Thống cứ cố chấp với nguyên tắc ‘’Tống Nho’’, không nghĩ đến việc cơng rắn cắn gà nhà, mà cứ tự cho ḿnh là trung liệt với nhà Lê. Họ cứ nổi lên làm loạn măi nên họ Đặng phải cố gắng nán lại để đánh dẹp. Đến măi sau này, họ Đặng thấy nội bộ nhà Tây Sơn quá chia rẽ, triều chánh phân chia bè đảng nên buồn chán. Họ Đặng bèn từ chức trở về An Nhơn mở trường dạy vơ. Nhưng rồi thấy học tṛ lúc này không có chí lớn, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, họ Đặng đóng cửa trường, lên núi làm rẫy. Vài năm sau, khi nhà Tây Sơn suy tàn, th́ Vơ Văn Dũng t́m đến thăm họ Đặng. Đặng mừng gặp lại được cố tri, nhưng nghe Vơ bàn đến mưu sự phục hưng th́ Đặng lắc đầu từ chối: - Tôi ra giúp nhà Tây Sơn đâu phải v́ nhà Tây Sơn, mà chính v́ tổ quốc. Nếu giặc Thanh không mang quân chiếm nước ta, th́ tôi măi làm con hạc nội, máu đâu dính tới tay. C̣n nhà Tây Sơn chính Cảnh Thịnh làm mất. Song nếu Vũ Hoàng không có bỏ đích lập thứ nh́ th́ đâu đến đỗi nước này? Nay đất đă mất mà ḷng người cũng mất, hỏi c̣n mong làm được việc ǵ nữa? Mà dù có làm được nữa th́ làm để làm ǵ, nếu không phải để tranh chiếm ngôi báu? Tranh cho ai? Cho nhà Tây Sơn hay cho chính ḿnh? Thôi trên ba mươi năm trời đánh nhau, nhân dân đă điêu đứng rồi, không nên gieo rắc thêm tang tóc. Vơ ra về, Đặng ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không ai biết Đặng ở ngọn núi nào trong dăy Nam Sơn. Công trạng của Ngô Th́ Nhậm và Đặng Văn Long quả đáng cảm phục. Nhưng tư cách và tinh thần của hai vị anh hùng Tây Sơn lại càng đáng cảm phục hơn. Sinh ra trong một thời kỳ đất nước gặp nguy nan, hai người tự nguyện đem tài trí ra phục vụ quốc gia, chỉ nghĩ đến tổ quốc và sự hạnh phúc của toàn dân. Gương sáng của họ sẽ sống măi trong ḷng mọi người Việt Nam. Ts. Cai văn khiêm Tài liệu tham khảo: Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, Đại Nam xuất bản, Sàig̣n 1961. Mộng B́nh Sơn, Gió Lộng Cờ Đào, Tiền Giang xuất bản, Sàig̣n 1989. Quách Tấn và Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Nghiă B́nh xuất bản, Qui Nhơn 1989. Một số bộ sử đă ghi lầm những chiến công của ông là Đô Đốc Mưu. Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ. Bùi Sơn Duân, ‘’Vài nét chấm phá Quang Trung - Nguyễn Huệ trong một phim truyện, ‘’Đặc san Quang Trung Tây Sơn’’, xuân Giáp Tuất, 1994.





* Nguyễn Quang Thùy

Nguyễn Quang Thùy là con vua Quang Trung và bà họ Phạm ở Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Tây Sơn), phủ Quy Nhơn. Mẹ mất sớm, c̣n một em trai là Nguyễn Quang Bàng.

Nguyễn Quang Thùy được cha cho học vơ và học văn rất sớm. Thuở ấu thơ Quang Thùy rất quyến luyến chú Nguyễn Lữ. Đi đâu chú Lữ cũng cho theo. Tính t́nh cũng thích hợp với chú Tư (Tư Lữ): hiền ḥa, nhân hậu và can đảm. Quang Thùy chịu rất nhiều ảnh hưởng của chú Tư. Được chú Tư truyền thụ môn miên quyền. Có một thời gian thụ giáo thầy Trương Văn Hiến là sư phụ của cha ḿnh.

Khi bà họ Phạm mất rồi, Nguyễn Huệ lại kết duyên cùng bà Bùi Thị Nhạn ở thôn Xuân Ḥa, sanh ra Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và hai người con gái.

Quang Thùy được 18 tuổi th́ Quang Toản lên 9 lên 10 tuổi. Được cha cho đi theo trong quân trướng, nên Quang Thùy trở thành một vơ tướng đầy đủ mưu lược và kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường.

Sau khi đại thắng quân Thanh, vua Quang Trung sai Ngô Thời Nhậm lo việc giải ḥa. Ngô Thời Nhậm có chính sách ngoại giao khôn khéo đối với Phúc Khang An là Tổng đốc Lưỡng Quảng và Ḥa Thân một cận thần của vua Càn Long, để thuận chuyển lời trần tấu mềm dẻo của vua Nam đối với vua Măn Thanh, nên được vua Càn Long thuận giảng ḥa và phong cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương.

Mùa Xuân năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Quang Thùy được lệnh tháp tùng phái đoàn Việt Nam sang Trung Quốc bệ kiến vua Càn Long. Cầm đầu phái đoàn là Phạm Văn Trị, em ruột bà họ Phạm, mẹ Quang Thùy. Văn Trị có dung mạo phảng phất giống Nguyễn Huệ, nên được giả làm quốc vương Việt Nam sang chầu vua Tàu. Phái đoàn tháp tùng có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công.

Cống vật, ngoài những bảo vật thường lệ c̣n có hai thớt voi, ngà dài hơn sải và một ban nhạc cùng vũ nữ với mười bài từ khúc chúc thọ do Phan Huy Ích soạn. Mười bài từ đó là: Măn Đ́nh Phương, Pháp Giả Dẫn, Thiên Thu Tuế, Lâm Giáng Tiên, Thu Ba Tế, Bốc Dưỡng Tế, Yết Kim Môn, Hạ Thành Triều, Lạc Xuân Phong, Phượng Hoàng Các.

Sứ bộ khởi tŕnh tại Nghệ An ngày 29 tháng 3 năm Canh Tuất (1790) và qua khỏi ải Nam Quan ngày rằm tháng 4. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tống Khang An và Tuần vũ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thạnh đưa sứ bộ đến Yên Kinh. Lúc ấy, vua Càn Long đi tuần thú, sứ bộ phải đến hành cung tại sông Nhiệt Hà bệ kiến.

Vua Càn Long tưởng Nguyễn Huệ thật, cho vào làm lễ "bảo tấc". Lễ nghi này gọi là "tấc hạ thừa hoan" nghĩa là con ôm gối cha để đón niềm vui vẻ. Đó là vua Càn Long muốn cụ thể hóa lời nói của vua Quang Trung trong bài chiếu tạ ơn có câu:

Thần hữu mẫu hữu thân, báo đáp ngưỡng bằng ư đại tạo.

Quân vi sư vi phụ, sanh thành thượng kư ư long ân

Nghĩa là:

Tôi có cha có mẹ báo đáp ngửa nhờ đức cả.

Vua vừa nuôi vừa dạy, sanh thành măi nhớ ơn sâu.

Vua Càn Long vui nhận cống phẩm và tặng vua Quang Trung bức trướng thêu bốn chữ "Cùng Cực Qui Thành". Đồng thời, vua Càn Long cũng sắc phong cho Nguyễn Quang Thùy làm An Nam quốc vương thế tử.

Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tuất, phái đoàn trở về nước.

Năm sau, Nguyễn Quang Thùy được phong Khanh Công Lĩnh Bắc Thành, Tiết chế Thư Bộ Chư Quân, Nguyễn Quang Bàng làm Tuyên Công Lĩnh Thanh Hóa Đốc Trấn, Tổng lư quân dân sự vụ. Sau đó, vua Quang Trung lập Quang Toản làm Thái tử, sai sứ đem biểu sang tâu Thùy là con ḍng thứ. Càn Long nghe theo, phong Quang Toản làm An nam quốc vương thế tử thay Quang Thùy. Có người bất b́nh ngỏ ư cùng Quang Thùy. Thùy nói:

- Em tôi hay tôi làm thế tử cũng thế thôi. Điều cốt yếu là làm thế nào cho nước Đại Nam được mỗi ngày một thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi thêm vững bền, là tốt.

Hàng trí thức đương thời khen là "đại nhân"

Nguyễn Quang Thùy trấn thủ Bắc Hà, Quang Bàng trấn thủ Thanh Hóa. Hai trọng yếu ở mặt Bắc đều do hai con vua Quang Trung trấn nhậm.

Tháng 5 năm Tân Dậu (1801), Thuận Hóa lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh, vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Đến Thanh Hóa th́ được Nguyễn Quang Thùy từ bắc thành vào đón rước. Hạ tuần tháng 5, Cảnh Thịnh đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Tháng 8, sai Nguyễn Quang Thùy đem quân vào trấn Nghệ An. Tháng 11, Quang Toản kéo đại binh đến Linh Giang. Nguyễn Quang Thùy được sai lên đánh Trấn Ninh.

Trấn Ninh ở địa phận xă Phú Ninh, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng B́nh. Đó là một trong 3 căn cứ quân sự trọng yếu pḥng thủ địa đầu Thuận Hóa.

Năm Nhâm Dần (1662), Nguyễn Hữu Dật, tôi chúa Nguyễn đắp lũy Trấn Ninh để ngăn giặc biển, lại đắp thêm lũy Sa Phụ để nương tựa nhau. Quân Trịnh vào đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng ṛng ră mà không qua khỏi lũy này.

Quang Thùy công kích Trấn Ninh, đồng thời với Quang Toản đánh Đâu Mâu. Quang Toản thua trận phải rút về Nghệ An. Quang Thùy được tin đại binh rút lui bèn lui binh, nhưng bị chặn lại tại Linh Giang, phải theo đường núi mà đi, hơn một tuần mới về đến Nghệ An. Hai anh em gặp nhau rồi đồng trở về Bắc.

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh xưng đế.

Tháng 6 kéo quân vượt Linh Giang, chiếm Nghệ An rồi thẳng ra Thăng Long. Vua Bửu Hưng chạy lên hướng Bắc. Nguyễn Quang Thùy cùng vợ chồng Đô đốc Trương Đăng Đồ ở lại giữ thành Thăng Long. Thế giặc mạnh như băo táp, không sao địch được, hai ông bà Tú Đức Hầu pḥ Nguyễn Quang Thùy chạy về ngả Sơn Tây. Vài hôm sau th́ cả ba bị bắt tại Sơn Tây. Tú Đức Hầu cùng phu nhân rút gươm tự sát. Nguyễn Quang Thùy đập đầu tuẫn tiết.

Nhà Tây Sơn mất.

Trương Văn Đa

Trương Văn Đa người thôn An Thái, huyện Tuy Viễn (Tây Sơn), phủ Quy Nhơn (tỉnh B́nh Định), là con của vơ sư Trương Văn Hiến; tính t́nh thuần hậu, theo cha học cả văn lẫn vơ từ thuở ấu thơ. Trương Văn Đa được các môn sinh của cha thương yêu nên việc học tập thường được chăm nom giúp đỡ. Tinh thông vơ nghệ, uyên bác kinh thư, làu thông binh pháp nên Trương Văn Đa được Nguyễn Nhạc thương yêu, sau này gả con gái cho và ở luôn trong cung để dạy thái tử Bảo.

Khi Tây Sơn khởi nghĩa, Trương Văn Đa được cha chấp thuận cho theo Nguyễn Nhạc lên Tây Sơn thượng phụ trách huấn luyện nghĩa quân.

Đầu năm Quư Măo (1783), Trương Văn Đa tháp tùng Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định.

Sau khi đánh tan quân của Châu Văn Tiếp trên sông Gia Định, Nguyễn Huệ chia quân làm hai đánh đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Đồn Dác Ngư ở phía Nam thành Gia Định, trên sông Vàm Cỏ Đông, tướng giữ đồn là Dương Công Trừng. Trương Văn Đa dục quân xông thẳng vào đồn giáp chiến cùng Dương Công Trừng. Hai bên giao đấu quyết liệt và cuối cùng Trương Văn Đa bắt sống được Dương Công Trừng. Quân trong đồn lớp bị giết lớp chạy trốn về Gia Định. Rồi thành Gia Định thất thủ, Nguyễn Phúc Ánh đem gia đ́nh chạy đến Ba Giồng, tổ chức lại quân rồi đầu tháng 4 năm ấy cất quân đánh Tây Sơn.

Tại Đông Tuyên, quân nhà Nguyễn chưa đánh đă tan. Tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Quư bị Trương Văn Đa chém rơi đầu trên ḿnh ngựa. Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn ra Phú Quốc. Trương Văn Đa đem một lực lượng thủy quân hùng hậu đến bao vây đảo Cổ Long, nhưng gặp lúc trời mưa lớn, gió mạnh khiến thuyền phải dồn lại cột chặt vào nhau để chống lại sóng gió nên Nguyễn Phúc Ánh nương cơ hội bao vậy lơi lỏng chạy thoát về Phú Quốc.

Đất Gia Định hoàn toàn giải phóng. Quân Tây Sơn rút về để Trương Văn Đa cùng một số tượng sĩ ở lại giữ thành Gia Định.

Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh sang Xiêm cầu viện binh. Mùa hạ năm Giáp Th́n (1784), quân Xiêm rầm rộ kéo vào Gia Định.

Trấn thủ Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho khắp nơi vừa đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng. Quân Tây Sơn từ Rạch Giá, Châu Đốc rút về Cần Thơ, quân giặc đuổi theo, quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc. Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc th́ bị phục kích phải thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu sang Trà Ôn rồi lui về Sa Đéc. Quân đóng ở Cà Mau bị cô thế cũng rút về Trà Ôn. Quân giặc lại đuổi theo, nhưng đến Man Thiết thuộc Vĩnh Long th́ gặp đạo binh của Trương Văn Đa từ Sa Đéc kéo xuống đánh một trận kích liệt. Châu Văn Tiếp giao đấu cùng Trương Văn Đa chừng mười hiệp th́ bị chém bay đầu. Quân giặc phải rút lui xuống Trà Cú. Thấy không thể thắng địch được, Trương Văn Đa bèn bỏ đất miền Tây về phía hữu ngạn sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.

Trương Văn Đa với số quân không quá 10 ngh́n, nhưng nhờ ở mưu lược, nhờ ở ḷng dân ủng hộ, nên chống với giặc Xiêm đang kiêu căng, cướp phá, hăm hiếp dân lành.

Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Tuấn về Quy Nhơn báo cáo t́nh h́nh Gia Định. Tháng 11 năm Giáp Th́n (1785), Nguyễn Huệ xuất quân. Quân Tây Sơn vượt biển rồi kéo thẳng đến Mỹ Tho. Trương Văn Đa được phân nhiệm giữ thành Gia Định. Giặc Xiêm bị giết sạch, Trương ở lại trấn thủ Gia Định.

Nhận thấy muốn giữ vững được miền Nam c̣n phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa quân sự với dân sự là ḷng dân, Trương Văn Đa bàn với hai vị phụ tá là Cao Tắc Tựu và Triệu Đ́nh Tiệp:

- Dân miền Nam hầu hết điều chất phác và nhân hậu. Ḷng họ đối với nhà Nguyễn tuy không sâu đậm bằng người miền Bắc đối với nhà Lê, song có tài chinh phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn thu phục nhân tâm người miền Nam th́ phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn phải hơn nhà Nguyễn về mọi mặt. Trước hết, phải có một chánh sách tốt. Đó là tám chữ "Thân dân, ái dân, an dân, lợi dân". Cuộc chiến thắng quân Xiêm đă làm sáng tỏ chính nghĩa của nhà Tây Sơn. Cái tội "rước voi" của Nguyễn Phúc Ánh đă sờ sờ ra đó. Tuy nhiên vẫn c̣n có người cho rằng đất này là đất của chúa Nguyễn bị nhà Tây Sơn chiếm đoạt. Phá nước hại dân là quân Xiêm la. Để phá được tư tưởng này, phải mất nhiều thời gian và bằng hành động. Chúng ta chỉ có ba người, nên cần xin thêm tướng giỏi và cần chiêu hiền đăi sĩ ở địa phương làm trợ tá.

Vua Thái Đức được sớ bèn tăng cường Huỳnh Văn Thận và Lưu Quốc Hưng.

Từ đấy, nhân dân ở Gia Định được an cư lạc nghiệp.

Việc học hành được tổ chức khắp nơi. Ruộng đất mỗi ngày một mở rộng. Quân sĩ thay phiên nhau canh tác giúp đồng bào. Gia Định trở thành nơi trù phú. Năm 1786 sau khi dẹp yên chúa Trịnh ở phương Bắc, đuổi chúa Nguyễn ra khỏi Gia Định, vua Thái Đức phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, quản lư đất Gia Định. Trương Văn Đa trở về Quy Nhơn làm quan trong triều và đặc trách dạy dỗ Nguyễn Bảo, con trai vua Thái Đức.

Năm 1793, Cảnh Thịnh nhân sai tướng Phạm Công Hưng vào cứu viện rồi đoạt luôn giang sơn của bác. Nhận thấy t́nh h́nh nội bộ của Nhà Tây Sơn tiến dần đến suy vong, Trương Văn Đa vin vào tuổi già sức yếu xin được trở về sống nơi quê nhà là thôn An Thái để gần gũi mà phụng dưỡng cha già là Trương Văn Hiến.

Ông mất trước khi nhà Tây Sơn bị tiêu diệt.

Ngô Văn Sở

Ngô Văn Sở người làng B́nh Thạnh, huyện Tuy Phước, tỉnh B́nh Định. Ông nội là Ngô Mănh đă từng làm quan đến chức Đô Thống thời Trương Phúc Loan, trấn đóng nơi địa đầu Linh Giang và Trường Dục. Tính cương trực không chịu luồn cúi, nên bị Trương Phúc Loan t́m cách hăm hại vu cho tội thông đồng với chúa Trịnh, nên tước thu binh quyền, tịch thu gia sản và phải tội lưu đày. Ngô Mănh trốn thoát cảnh ngục tù, một thân cùng cháu nhỏ là Ngô Văn Sở không dám về quê, đành cải danh là Đặng Hải Siêu và Đặng Sơn Điêu vào Nam, lưu lạc lên Tây Sơn. Trên đường đi, Hải Siêu lâm bịnh, nên ông cháu xin nương nhờ nơi vườn nhà Bùi công ở thôn Xuân Ḥa. Bùi công nuôi dưỡng tử tế. Một hôm, vào nửa đêm, nhà Bùi công bị cướp, Ngô Mănh ra tay cứu trợ, đánh tan bọn cướp. Bùi công ân cần thăm hỏi, Hải Siêu đem tất cả sự thật ra giăi bày. Từ đó, ông trở thành thầy dạy vơ cho bà Bùi Thị Xuân. Sau ba năm ẩn náu tại Bùi gia trang, Ngô Mănh bị bạo bệnh qua đời. Ngô Văn Sở buồn rầu xin giă biệt Bùi công đi xuống hạt Quy Nhơn và định cư tại B́nh Thạnh, Tuy Viễn (Tuy Phước).

Khi Tây Sơn vương khởi nghĩa, ông đến xin góp sức góp tài. Ông kết thân với Vơ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. Với Bùi Thị Xuân th́ ông là bạn cũ.

Nhờ vơ dũng và mưu lược, Ngô Văn Sở được Tây Sơn vương trọng dụng.

Năm Quí Tỵ (1773), Ngô Văn Sở được cử làm Chinh nam Đại tướng quân cùng Lê Văn Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm ba phủ Phú Yên, Diên Khánh, B́nh Thuận.

Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế, phong Ngô Văn Sở chức Đại Tư mă. Lúc Nguyễn Huệ ra đánh Thuận Hóa đem theo Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo làm Tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền.

Sau khi diệt Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lập Lê Duy Cẩn làm Giám quốc. Cựu thần nhà Lê không người nào theo. Duy Cẩn ở trong điện với một vài hoàng thân và mấy viên vơ tướng, suốt ngày không thấy tâu hỏi việc ǵ!

Ngô Văn Sở bảo cùng Nhậm:

- Tôi, xem tướng Sùng Nhượng Công không sao khu sách được người. Vả chăng từ xưa đến nay, thiên hạ không phải vật tư của ai, như nên lấy th́ lấy hẳn đi, sao lại để người như thế làm Giám quốc. Chúng ta đă lâu ngày chịu khổ với thành này, bây giờ trở lại làm người khách ngụ của pho tượng gỗ này hay sao?

Nhậm kinh khỉnh nói:

- Ḷng người Bắc hà c̣n nhớ nhà Lê lắm, không thể không theo chúng vọng được. Bọn người chỉ biết mạnh đánh mà thôi. Việc an dân đă có ta làm chủ.

Ngô Văn Sở làm thinh, trở ra nói cùng Phan Văn Lân:

- Tiết chế khinh người thái thậm! Tài đức ǵ mà dám đăi chúng ta như đám sĩ tốt, việc lớn đều tự chuyên.

Bèn làm mật tấu cùng Bắc B́nh Vương.

Được tin, Bắc B́nh vương cười:

- Bạn tâm đă có từ lâu, bạn trạng măi nay mới h́nh hiện.

Lập tức truyền lệnh xuất sư. Đi suốt ngày đêm. Hơn 10 hôm đến Thăng Long. Nhậm không kịp trở tay. Bị bắt và đem ra giết.

Đại Tư Mă Ngô Văn Sở nắm giữ chính quyền.

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo đại binh sang Việt Nam, Ngô Văn Sở làm kế hoăn binh sai người đến dinh họ Tôn cầu ḥa. Lời đề nghị bị bác khước.

Ngô Văn Sở bèn nhóm hội các tướng văn, vơ lại luận bàn kế hoạch chống giữ. Nguyễn Văn Dụng đề nghị dùng phục binh đánh địch. Ngô Thời Nhậm nói:

- Quân địch mới tới, sức c̣n mạnh, khí đương hăng lại khoa trương thanh thế làm kinh động nhân tâm, nếu ta đem quân ra khỏi thành sẽ bị chúng sát hại. Cựu binh sĩ của Bắc hà, nhuệ khí vốn đă nhụt sẽ thừa cơ trốn hết. Chừng ấy chúng ta muốn đánh th́ cũng không hơn mà muốn giữ cũng không đặng. Chẳng phải là thượng sách. Chi bằng rút hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Điệp ra đến biển để bảo toàn lực lượng rồi cho cáo cấp về Phú Xuân. Lúc đó ta sẽ quyết chiến cũng không muộn.

Ngô Thời Nhậm tự là Hy Doăn, hiệu là Đại Hiên, con trai của Ngô Thời Sĩ, sinh năm Bính Dần (1740) tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Tŕ, cách thành Thăng Long chừng 10 cây số. Đậu tiến sĩ năm Ất Mùi (1775), làm quan đến chức Công bộ hữu Thị Lang triều Lê năm 1782, khi kiêu binh nổi loạn, Ngô Thời Nhậm chạy trốn về quê vợ ở Sơn Nam. Năm 1788, theo lời hiệu triệu của Bắc B́nh vương ra hợp tác cùng nhà Tây Sơn. Bắc B́nh vương trọng đăi cho làm chức Tả Thị Lang bộ Lại, tước Tinh Thái hầu, cùng với Vơ Văn Ước coi tất cả các quan văn vơ nhà Lê.

Nghe Ngô Thời Nhậm bàn, Ngô Văn Sở nói:

- Giặc đến chưa đánh đă chạy, tôi e đắc tội với Bắc B́nh Vương.

Ngô Thời Nhậm đáp:

- Lương tướng thời xưa, lượng sức giặc trước rồi mới định việc công hay thủ. Nay ta đem toàn quân lui về, chẳng qua là cho chúng ngủ nhờ một đêm, sáng ngày đuổi đi, có ǵ quan trọng. Nếu Bắc B́nh vương hỏi tội, tôi sẽ bẩm biện. Ông cứ yên tâm.

Ngô Văn Sở bèn cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây về hội tại Bắc Thành trấn Sơn Nam rồi đồng tiến vào Tam Điệp, đồng thời cho Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân cáo cấp.

Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân (1789), đại binh vua Quang Trung đến Tam Điệp. Ngô Văn Sở ra chịu tội, Quang Trung biết là mưu của Ngô Thời Nhậm, nên bỏ qua. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân được lệnh đem tiền quân tiến về Thăng Long.

Đánh tan quân Thanh, Quang Trung tiến quân vào Thăng Long thành. Tháng hai năm Kỷ Dậu (1789), đại quân trở về Phú Xuân. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long, tổng thống việc quân quốc. Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích phụ trách việc giao thiệp với Trung Hoa.

Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), Ngô Văn Sở tháp tùng đoàn Nguyễn Huệ giả sang Trung Quốc.

Vua Quang Trung mất, Ngô Văn Sở được triệu hồi về Phú Xuân. Bùi Đắc Tuyên được Ngô Văn Sở ủng hộ, nên được trọng đăi.

Năm 1793, nhân dân thành Quy Nhơn bị nguy khốn, vua Cảnh Thịnh sai Thái úy Phạm Công Hưng cùng Ngô Văn Sở và các tướng đem binh cứu viện và lợi dụng thời cơ đoạt luôn quyền bính. Ngô Văn Sở can ngăn, nhưng Phạm Công Hưng vẫn chiếm cứ kho tàng, giải giáp quân đội của vua Thái Đức và đưa đến cái chết uất ức của vua Thái Đức. Không ngăn cản được việc cướp chính quyền của Phạm Công Hưng, nhưng Ngô Văn Sở đă can thiệp cho các quan văn vơ đại thần của Vua Thái Đức khỏi bị hại. Lớp xin được cáo quan về làng, lớp thuận quy phục Cảnh Thịnh th́ bị phân tán đi các nơi xa.

Ngô Văn Sở lại trở về Phú Xuân.

Trong vụ án Lê Văn Hưng, mặc dù cố gắng can gián, nhưng không được, Ngô Văn Sở đành bất lực nh́n cố nhân bị trảm quyết. Sau đó Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc thành thay cho Vơ Văn Dũng. Dũng về Phú Xuân kết hợp với các tướng làm áp lực với vua Cảnh Thịnh bắt Bùi Đắc Tuyên, Bùi Đắc Trụ và Ngô Văn Sở (do chiếu giả triệu hồi từ Bắc thành về) đem đóng cũi d́m xuống sông Hương. Nhà Tây Sơn bắt đầu suy vi.

ÔNG CHẢNG (Đinh văn Nhưng)

Trong Bảo tàng Quang Trung ở huyện Tây Sơn có treo nhiều bức tranh mô tả các sự kiện nhà Tây Sơn. Trong đó, có một bức tranh vẽ cảnh một ông già ngồi trên chiếc thang mọi người khiêng đi, xung quanh có nhiều người hộ giá, kẻ vác cào cỏ, người cầm chĩa ba... Trông ông già không phải là một quan lớn, cũng không phải là "thảo dân". Bởi quan lớn của triều đ́nh nhà Tây Sơn th́ phải có mũ măo cân đai, người theo hầu phải là quân lính... C̣n là nông dân th́ sao lại được ngồi trên cao, kẻ hầu người hạ. Sự thật ông ta là một nông dân ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, thuộc nhà họ Đinh, tên Chảng. V́ sao ông được Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) trọng vọng như vậy?

Như chúng ta đă biết, tổ tiên của nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ vào lập nghiệp ở đất Quy Nhơn thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657) ở Đàng Ngoài và thời Chúa Nguyễn Phúc Tần ở Đàng Trong. Lúc mới vào Quy Nhơn, ông Hồ Phi Long (tức ông cố của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ) đến ở và giúp việc cho nhà họ Đinh ở Bằng Châu. Thấy họ Hồ là người trung hậu, họ Đinh gả con gái cho. Ông Hồ Phi Long sinh ra Hồ Phi Tiễn, ông Tiễn lanh lợi nhưng sức yếu không thể làm nông và được họ Đinh giúp vốn để đi buôn. Thời bấy giờ trầu nguồn có giá, ông Tiễn lên đất Tây Sơn buôn trầu. Ở đây ông gặp người vừa ư là bà Nguyễn Thị Đồng, bèn kết nghĩa vợ chồng và cất nhà ở luôn quê vợ. Bà Đồng là con gái duy nhất của một phú thương, để kế tục gia tài và đời đời giữ hương hỏa họ Nguyễn, bà thương lượng cùng chồng cho con mang họ Nguyễn. V́ vậy, khi sinh con ông Tiễn đặt tên con là Nguyễn Phi Phúc. Lớn lên ông Phúc kế tục nghề buôn trầu và kết duyên cùng bà Mai Thị Hạnh để sinh ra ba anh em nhà Tây Sơn.

Sau khi sửa sang thành Quy Nhơn đổi thành Thành Hoàng Đế và xưng vương, trong lúc phong đặt các tướng, thiết lập nội triều, ban thưởng chức tước cho những người có công, vua Thái Đức đă không quên tổ tiên bên ngoại của ḿnh là họ Đinh ở Bằng Châu. Lúc này, họ Đinh không c̣n ai, chỉ c̣n một ông lăo trên bảy mươi tuổi, tính khí ngang tàng bướng bỉnh, người trong vùng gọi là ông Chảng. Nhà vua mời ông lăo vào triều để phong tước, ông lăo nói: "Ông làm vua là làm vua với thiên hạ, chứ với tôi ông vẫn là con cháu. Con cháu mà ban chức tước cho cha ông th́ hơi nghịch, chi bằng để tôi phê rồi ông lục th́ hơn...". Nhà vua chiều theo ư ông lăo. Ông lăo cầm bút viết: "Bùng binh chi tướng. Uưnh cương chi quan. Bộn bàng chi chức. Chảng chảng ngang thiên". Như vậy, ông không có chức tước ǵ cụ thể, nhưng chức ǵ cũng có, từ tướng tới quan... và đó là ông Chảng ngang thiên. Tức là ngang với ông trời (trên cả vua, v́ vua mới chỉ là "con trời"). Thực ra, ông có tự phong ḿnh chức ǵ th́ cũng chẳng sao, nên nhà vua để cho ông toại nguyện. Mặc dù ngang tàng, bướng bỉnh nhưng tính t́nh cương trực, nên ông Chảng được nhiều người dân trong vùng tôn trọng.

Mỗi lần ông lăo vào thăm vua Thái Đức, th́ thường ngồi trên một cái ghế thang có bốn người khiêng, hai bên có vài chục người cầm cào cỏ, cuốc chỉa, xuổng... là những dụng cụ làm nông thay cho cờ biển hèo tua, và hai cây du du che nắng khi tát nước dùng làm lọng. Phía sau, phía trước lại có hai đoàn người thổi kèn, đánh trống bằng miệng tưng bừng rộn rịp, mọi người kéo ra xem rất đông, vui như hội.

H́nh ảnh ông Chảng c̣n lưu truyền trong kư ức của người dân B́nh Định từ các câu chuyện kể. Đó là một nhân vật đặc biệt, có một không hai.

Hữu Vinh


Chiến thuyền thời Tây Sơn

Nguyễn Huệ - linh hồn của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn - sinh trưởng ở vùng núi, nên rất giỏi về bộ chiến. Đồng thời ông c̣n là vị tướng rất tài ba trên phương diện thủy chiến, có những chiến công vô cùng hiển hách.

Trong quá tŕnh phát triển đi lên của nghĩa quân, Nguyễn Huệ đă chú trọng đến việc xây dựng đội thủy binh hùng mạnh. Thủy quân Tây Sơn gồm có thuyền vận tải và thuyền chiến, đông đến cả ngàn chiếc.

Lúc bấy giờ, công nghệ đóng thuyền ở nước ta đă có những tiến bộ nhất định. Cuối thế kỷ XVIII, John Barraw - hội viên Hội Hoàng gia Anh - đă đến xứ Đàng Trong (miền Trung và miền Nam Việt Nam) và chứng kiến: "Thuyền của họ đóng rất đẹp, thường dài từ 50 đến 80 pied (1pied = 0,30m). Đôi khi một chiếc thuyền như vậy chỉ gồm 5 tấm ván, kéo dài từ đầu nọ đến đầu kia và được ghép vào nhau bằng mộng. Thuyền biển của họ đi không nhanh lắm, nhưng rất an toàn. Bên trong được chia thành từng khoang, loại này rất chắc có thể đâm vào đá ngầm mà không ch́m v́ nước chỉ vào một khoang mà thôi. Hiện tại ở Anh đă bắt chước cách làm này để áp dụng vào việc đóng tàu".

Một số lớn thuyền chiến của Tây Sơn được trang bị pháo, nhằm tăng cường hỏa lực, tạo nên mũi đột kích có sức công phá và tiêu diệt lớn. Trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho biết ở Quy Nhơn, thủy đội Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo hạm, 100 tàu buồm trang bị khá hùng hậu.

Năm 1782, thủy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến đánh Gia Định. Thủy quân của Nguyễn Ánh dàn trận ở sông Cần Giờ nghênh chiến. Chiến thuyền Tây Sơn "giương buồm căng, xông pha thẳng tiến" (Lịch triều tạp kỷ - LTTK - Ngô Cao Lăng). Chiến thuyền quân Nguyễn "chưa giao chiến đă tự tan vỡ". Trong trận này, thủy quân Tây Sơn đă đốt cháy chiếc tàu do Manuel - một sĩ quan Pháp trong quân đội chúa Nguyễn - làm thuyền trưởng và giết chết luôn y. Thừa thắng, thủy quân Tây Sơn đánh tan luôn cả hạm thuyền của Nguyễn Ánh đóng ở sông Ngă ba thuộc Xoài Rạp, rồi tiến thẳng đến Bến Nghé, khiến chúa Nguyễn phải bôn tẩu ra đảo Phú Quốc.

Năm 1783, thủy quân Tây Sơn lại tiến vào Gia Định, đánh quân Nguyễn. Hạm thuyền Tây Sơn và hạm thuyền chúa Nguyễn giáp chiến kịch liệt ở sông Bến Nghé. Kết cục hạm thuyền Tây Sơn đă đốt cháy hạm thuyền quân Nguyễn mờ mịt trong ṿng khói lửa dữ dội! Lần này, Nguyễn Ánh cùng tàn quân lại phải chạy trốn ở đảo Phú Quốc.

Năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh Phú Xuân, các pháo thuyền Tây Sơn đậu ở sông Hương, chờ nước thủy triều lên, bắn phá dữ dội vào thành và nhanh chóng chiếm được Phú Xuân của quân Trịnh. Thừa thắng quân thủy Tây Sơn gồm 1.400 chiến thuyền và 2 vạn quân tiến ra Bắc Hà. Quân Trịnh tổ chức pḥng thủ ở Nghệ An, nhưng bị nghĩa quân đánh chiếm dễ dàng.

Sử cũ ghi: "Thuyền Tây Sơn đến cửa Hội thuộc Hội An, trấn thủ Bùi Thế Toại đốt doanh trại, bỏ trốn chạy. Thuyền (Tây Sơn) như đi vào chốn không người, như gió, lướt đến đấy, không ai dám chống cự" (LTTK). Thủy quân Tây Sơn tiến tiếp đến Vị Hoàng. Viên trấn thủ của chúa Trịnh ở đấy chạy trốn. Lúc bấy giờ, thanh thế của nghĩa quân rất lừng lẫy. Nhân dân Nghệ An leo lên núi, trông ra ngoài biển thấy "cánh buồn và cờ xí của Tây Sơn rất nhiều" (LTTK).

Sau khi mất Vị Hoàng, chúa Trịnh vội điều Đinh Tích Nhưỡng - một viên tướng rất giỏi thủy chiến của quân Trịnh - đem chiến thuyền từ Hải Dương vào bảo vệ trấn Nam Sơn cùng với trấn thủ Đỗ Thế Dân chuyên lo mặt bộ. Chiến thuyền Tây Sơn tiến đến xông chiến. Hai bên đấu pháo kịch liệt, nhưng uy lực pháo từ các chiến thuyền Tây Sơn đă bỏ ra át hẳn quân Trịnh: "Đại pháo (Tây Sơn) tiếng to như tiếng sấm, đạn bay qua các cây cổ thụ, tiện làm hai đoạn" (LTTK). Sau một lúc bắn nhau, chiến thuyền Tây Sơn "nổi trống, reo ḥ, tiến lên không biết bao nhiêu mà kể. Thấy không địch nổi, Nhưỡng vội quay thuyền về, lên bờ chạy trốn" LTTK).

Phát huy chiến thắng, thủy quân Tây Sơn, từ sông Lục Môn (Sơn Nam) tràn về kinh thành Thăng Long như nước vỡ bờ. Chúa Trịnh vội sai tướng Hoàng Phùng Cơ (Quận Thạc) đem binh thuyền trấn giữ cửa sông Thúy Ái. Pháo từ các chiến thuyền Tây Sơn bắn cấp tập vào đội h́nh quân Trịnh, khiến các tướng của Quận Thạc trên chiến thuyền thuộc tiền trạch đội và trung trạch đội bị pháo giết chết toàn bộ. Quận Thạc buộc phải "cướp đường chạy, chỉ kịp thoát thân. Quân Trịnh bị chết, thây xác ngổn ngang trên và dưới hồ Vạn Xuân không sao kể xiết" (LTTK).

Sau đó, quân thủy Tây Sơn đổ bộ lên bến Tây Luông và đánh bại quân Trịnh cuối cùng ở tại đây. Chúa Trịnh Tông phải chạy trốn và bị bắt. Chấm dứt việc cai trị Bắc Hà của ḍng họ Trịnh - một ḍng họ từ lâu đă đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.

Sau khi vào Thăng Long, Nguyễn Huệ lập lại trật tự Bắc Hà và giao quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông, chẳng bao lâu sau, vua Lê chết và Lê Chiêu Thống lên nối ngôi. T́nh h́nh Bắc Hà trở nên rối ren. Lê Chiêu Thống bất tài và nhu nhược cầu viện quân Thanh (Trung Hoa). Nhân cớ đó, Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân xâm lược nước ta. Trước thế nước nguy vong, Nguyễn Huệ từ Phú Xuân thống lĩnh đại quân ra Bắc diệt bọn cướp nước và bọn bán nước. Từ Phú Xuân, toàn bộ lực lượng của nghĩa quân đă xuống thuyền cấp tốc hành quân đến Nghệ An và từ đây, chia làm 2 cánh, cánh quân bộ và cánh quân thủy, tiến đến Thăng Long. Mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (3-2-1789), nghĩa quân giải phóng kinh thành khỏi ách chiếm đóng của quân xâm lược Thanh.

Theo Thế Giới mới


1




[ VIVODO Homepage ]
1