Tờ Gia Định Báo, tờ báo
đầu tiên của Việt Nam bằng chữ quốc ngữ phát hành vào
ngày 15 tháng 4 năm 1865 và đóng cửa vào khoảng tháng 10, 1909,
"nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những
tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức
về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những
vấn đề canh nông" (trích thư của G. Roze, Thống Đốc
Nam kỳ gửi cho bộ trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp- Gia Định
báo, Duy Vân, trang 43-44, Nguồn Việt xuâát bản, Uùc Châu,
1986).
Phải gần 20 năm sau mới có
một tờ báo phụ nữ phát hành tại Sàigòn do một phụ nữ
-bà Nguyêãn Đức Nhuâ.n- làm chủ nhiệm:
-.Ngày hôm nay, Phụ nữ tân
văn ra đời, là non sông thêm một tay thợ điểm tô, xã hội
thêm một người lo công viêäc, trên trường văn trận bút
thêm một đội binh đàn bà mà trong bạn buồng khuê cửa các
chúng ta, cũng có một cơ quan để cùng nhau phấn đấu với
đời đây!
Thân thế phụ nữ ở trong
nước ta ngày nay quyết không phải như là hồi trước, lấy
khuê môn làm cửa ngục cho đàn bà, mà việc gánh vác non sông
không phải là phần việc con gái.
(Chương trình của bổn báo,
bà Nguyễn Đức Nhuận, Phụ Nữ Tân Văn số 1 ngày 2.5.1929,
trang 5- Trích lại trong 13 Năm tranh luận văn học, Giáo
sư Thanh Lãng, tập II, nhà xuất bản Văn Học in lại, Sàigòn,
1995)
Mục Văn Học của Phụ nữ
tân văn do nhà văn Phan Khôi đảm đương. Chính vì sự chủ
trương này mà đã có những loạt bài về phụ nữ như phỏng
vâán "Các danh nhân trong nước đối với vấn đề phụ
nữ". Riêng Phan Khôi viết những bài khảo cứu hay tiểu
luận như: "Theo tục ngữ phong dao xét về sự sinh hoạt
của phụ nữ chúng ta" hay " Chữ Trinh" và "Chữ
quôác ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nưõ".
Trong khi ấy, ngoài Bắc mãi
đến tháng 3 năm 1933, nhóm Tự lực Văn Đoàn mới chính thức
thành lập, công bố trên tờ Phong Hóa số 87 chủ trương 10
điều (thật ra chỉ có 9 vì điêàu thứ mười chỉ để bổ
sung cho chín điều trên) như "Soạn hay dịch những cuốn
sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã
hội ngày môät hay hơn lên" (điều 2) hay "Trọng tự
do cá nhân" (điều 7).
Tự Lực Văn Đoàn với những
nhà văn nổi tiếng và những sáng kiến táo bạo của họ
cả về xã hội lẫn văn chương dĩ nhiên gây tiếng vang và
ảnh hưởng rộng lớn mà Phụ Nữ tân văn không thể nào
so sánh nổi. Nhưng hai tờ báo tiên phong, một trong Nam, một
ngoài Bắc, giống nhau ở một chỗ: họ có hai nhà văn phái
nam muốn nâng cao nữ trí và muôán cải tiê'n đời sống phụ
nữ. Đó là Phan Khôi và Khái Hưng. Nhưng khác với Phan Khôi,
Khái Hưng không viết luận thuyết mà viết tiểu thuyết. Đời
viết văn của ông tuy được xếp chung với nhóm Tự Lực
Văn Đoàn về khuynh hướng cải cách xã hôäi nhưng ông hoàn
toàn đứng riêng một chỗ, là chỗ các nhân vật trong những
tác phẩm chính của ông đều là phụ nữ (Lan trong Hô`n
Bướm Mơ Tiên, Mai trong Nửa Chừng Xuân, Hiền trong
Trống Mái, Hôàng trong Thoát Ly, Lan trong Đẹp,
Nga trong
Gia Đình, bà Aùn Ba trong Thừa Tự.)
Ngay từ đầu và cho đêán
nay, hai cuôán tiểu thuyêát vẫn được nhắc đến sóng đôi
là Đoạn Tuyêät của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khái
Hưng dù Nửa Chừng Xuân được xuâát bản hơn môät năm trước
Đoạn Tuyệt (1935). Tuy nhóm Tự Lực Văn
Đoàn và nhà xuất bản Đời Nay quây quần bởi nhưnõg nhà
văn hay người thân của Nhâ't Linh, người sáng lâ.p Tự Lực
Văn Đoàn đã không dấu diếm sự tương quan chăët chẽ giữa
hai người cả về lý tươnûg lâãn văn chương qua lời đề
tặng trên cuốn Đoạn Tuyệt " Tặng KHÁI HƯNG, tác giả
Nửa Chừng Xuân nhà văn cùng một quan niệm với tôi về
xã hội hiện thời, tặng các thanh niên nam nữ đã từng chịu
những nỗi khắt khe của cuộc đời xung đột mới, cuõ."
Với Đoạn Tuyệt và
Lạnh Lùng, Nhất Linh đương nhiên là người tiên phong
đại diện cho sự đòi giải phóng phụ nữ tại miêàn Bắc.
Nhưng người sẽ quan tâm đêán nữ giới lại là Khái Hưng
mà Nửa Chừng Xuân chỉ là tác phâåm đầu tiên trong
nhiều tác phẩm khác.
Ở đây sẽ không bàn đến
gía trị văn chương hay cách kết cấu của chúng. Ở đây
chỉ bàn đến chủ ý của tác giả trong xã hội, trong tình
cảnh dân trí Việt Nam thời bấy giờ.
Ngay trong trong quãng đời viết
đâàu tiên, Khái Hưng đã có bốn tác phâåm mà nhân vật
nữ là nhân vật chính để mở đầu cho đăc điểm của văn
chương của ông: phụ nữ nếu không đóng vai chính thì cũng
là những vai phụ cần thiêát để tác giả mô tả xã hôäi
và bày tỏ quan niêäm của ông về những vâán đề liên quan
đến xã hội ấy, nhất là về vấn đề phụ nữ. Về nhân
vật chính, Khái Hưng có hai loại phụ nữ khác hẳn nhau hoàn
toàn, môät như Cúc Hoa, môät kia như Tào thị.
I. NHỮNG CÚC HOA
Khái Hưng là con trưởng ông
tuần phủ Trần Mỹ, học cả nho học lẫn tây học (tú tài
ban triết học). Nhiều tuổi hơn Nháát Linh, Khái Hưng cộng
tác trước đó với Văn Học của Dương Bá Trác, làm chủ
bút cho tờ Phong Hoá của Phạm Hữu Ninh và trở thành một
trong những cột trụ chính của Tự Lực Văn Đoàn khi hợp
tác với Nháát Linh (và Hoàng Đạo, Thạch Lam.) làm tờ Phong
Hóa mới, rồi tờ Ngày Nay. Nhóm Tự lực Văn Đoàn đa số
có bằng cấp nhưng không ra làm quan. Nhất Linh du học về,
dậy ở tư thục Thăng Long với Khái Hưng. Riêng Khái Hưng,
thân sinh làm tuần phủ, nhạc phụ là tổng đốc thì muốn
làm ông phán, ông huyện cũng dễ dàng thôi), Hoàng Đạo tốt
nghiệp Cao đẳng Luật nhưng chỉ làm tham tá lục sự ở tòa
án.
Vì có căn bản Hán học, cái
nhìn của Khái Hưng không cực đoan. Cô Mai trong Nửa Chừng
Xuân không có những cử chỉ quá quắt như cô Loan của
Nhất Linh. Bốn cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất, nổi tiếng
nhâát xuất bản liên tiếp trong vòng 4 năm, từ Hồn Bướm
Mơ Tiên (1932), Nửa Chừng Xuân (1933), Tiêu Sơn
Tráng Sĩ (1934) cho tới Trô'ng Mái (1935) đều có nhân
vật nữ chính với những cá tính giống như nhau: hy sinh, lý
tưởng, mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thâàn và đi
trước thời đại họ đương sống.
Không phải là một sự tình
cờ mà Khái Hưng dựng những truyện này vào nhưnõg hoàn cảnh,
môi trường khác hẳn nhau mà đều đại diện cho những môi
trường điêån hình có người phụ nữ sinh sống, lại tiêu
biểu cho hoàn cảnh đặc biệt lúc bấy giờ
Ở Hồn Bướm Mơ Tiên,
Lan đi tu, không phải vì tháát tình mà vì "đã tiêm nhiễm
những tư tưởng cao thượng của Phật giáo" (trang 111)
Cho nên, khi găëp Ngọc, cái tình cảm luyến ái với một người
khác phái mới thực sự thử thách cái ảnh hưởng ấy. Cuô.c
giằng co giữa đời và đạo xẩy ra ngay trong chùa Long Giáng
là nơi Lan quy y. Ở Nửa Chừng Xuân, Mai có con với Lôäc
nhưng tự trong lòng đã biê't đứa con ấy là kéát quả của
tình yêu chứ không phải của một cuôäc hôn nhân chính thức
theo lẽ thông thường :
-.Không em không có lỗi gì
hết. Chính anh mới là người có tội đối với em. Anh đã
làm hại một đòi em, môät đời thanh niên của em. Anh dôái
em. Anh lừa em. Cái người mà anh nhận là mẹ, không phải
là mẹ anh.
Mai ngắt lời:
-Em biết rồi, em biêát cả
rồi, em biết đã lâu. Nhưng điều â'y không có hề gì.
Lộc hoảng hô't:
-Không hề gì à? Em biết
từ bao giờ?
-Trước khi em làm vợ anh.
Lôäc kinh hãi:
-Em biết mà em bằng lòng
lâ'y anh, bằng lòng lấy anh một cách không chính đáng?
(trang 112-113, sđd)
Nghĩa là cô Mai của
Nửa
Chừng Xuân còn đi xa hơn cả: đứa con sinh ra có thể không
được thừa nhận và như diễn tiến sau này, đứa con ấy
đã lấy họ mẹ của Mai. Cổ võ tự do cá nhân nhưng chỉ
có Khái Hưng mới đưa cái thực tế này vào tiểu thuyết.
Và bởi thế, Nửa Chừng Xuân mới trở thành gần gũi
với nguòi đọc hơn. Nửa Chừng Xuân không phải dựa
vào những lô' mở hết sức bâ't thường để nhân vật nữ
chính có cách thoát như Đoạn Tuyê.t của Nhất Linh (và
Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan).
Nửa Chừng Xuân xuất
bản vào thời kỳ mà những cuộc vận động để cải cách
xã hội và nâng cao giá trị phụ nữ đến lúc sôi nổi nhâát.
Tình trạng phụ nữ được chú ý đến nỗi khi Phụ Nữ tân
văn gửi câu hỏi tới các "danh nhân trong nước" (bđd)
đã được sự đáp ứng hết lòng bằng những bài trả lời,
bài góp ý của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Quỳnh,
Trâ`n Trọng Kim. Ấy là không kể Phan Khôi.
Nửa Chừng Xuân
càng được chú ý hơn trong hoàn cảnh này bỏi lẽ Lô.c-nhân
vật nam, ngừơi yêu của Mai -là môät thanh niên được coi
là trí thức, có học và xuất thân từ môät gia đình quan
cách, giàu có. Như Ngọc của Hô`n Buớm Mơ Tiên là sinh
viên trường Canh Nông. Rất trái với Thân của Đoạn Tuyê.t.
Những người đàn ông này đáng lẽ phải là những người
đầu tiên nhận ra sự báát công vói phụ nữ. Nhưng trên
thực tế lúc bấy giờ, đa số vẫn chưa nhìn thấu được
cái gánh nặng mà người yêu hay người vợ sẽ phải chịu.
Tình yêu của họ vẫn là những tình yêu vì mình hơn vì người.
Khái Hưng có lẽ là nhà văn thâm hiêåu tâm tính của phụ
nữ, nhất là của những người đàn bà xem ra khác thường
mà ông đã phô bày qua Lan và Mai. Với những ngừơi đàn bà
này, một tình yêu có thể nuôi dươnõg được họ trong cả
một đời dù cô độc hay lẻ đôi. Vũ Ngọc Phan, một nhà
phê bình tăm tiêáng hình như đã không chú ý đến cái chủ
ý này của tác giả vì đã phán đoán Hồn Bướm Mơ Tiên
và Nửa Chừng Xuân trên hành động của Ngọc và
của Lôäc mà quên rằng trọng điểm của chúng là tính ý,
suy nghĩ và cảm xúc của hai nhân vật nữ chính:
-.còn Ngọc, một sinh viên
trường Cao Đẳng, một người Tây học, lại si tình đến
nỗi quyết chí theo đuổi chú tiểu Lan để tra cho ra là gái,
mà lại có thể có tư tưởng viển vông ấy giữa lúc tình
yêu đang bồng bột thì kể cũng là điều laï...
(Nhà Văn Hiện Đại - Phê
Bình Văn học, Vũ Ngọc Phan, trang 829)
-.Mai vẫn còn thiết tha yêu
Lộc, Lộc vẫn còn yêu Mai một cách cuồng dại, hai người
lại có với nhau được môät đứa con trai, thì sự ở xa
nhau mà vẫn yêu nhau trong tâm trí có thể thực hành được
không.Quyết là họ không thể xa nhau được [...] Lộc đang
làm tri huyện, nếu chàng muôán "đem hết tài trí nghị lực
ra làm viê.c cho đời", thì còn gì dễ bằng, hà tâát chàng
phải đi tìm con đường khác? [...] Vì tác giả không
muốn có sự tái hợp âáy, để ái tình hai người được
cao thượng, nên cái tình yêu của họ hóa ra thứ tình yêu
lý tưởng, chẳng khác nào tình yêu của Ngọc với "chú tiểu"
Lan ở Hồn Bướm Mơ Tiên.(trang 830-831, sđd)
Chính vì thế mà Vũ Ngọc Phan
hẳn quên rằng trong vòng tám trang cuối của Nửa Chừng
Xuân, Mai đã cắt nghĩa cho Lộc (và cho cả độc giả)
những lý do khiêán hai người không thể tái hợp được:
-.Em yêu anh mà em cứ nơm
nớp sợ hãi người vợ cả, mà lúc nào em cũng tưởng tới
sự chia đôi tình ái với người ta thì sự ấy càng đau khổ
bă`ng mấy mươi sự cách biê't nhau.Nếu em bằng lòng lấy
lẽ anh tức là em cướp chồng của người ta.Muốn hưởng
hạnh phúc ta phải đường hoàng yêu hau. Vậy thì xum họp
mà làm gì? Thà cách biê't hẳn nhau, thà ở xa hẳn nhau có
hơn không? (trang 305, sđd)
Trong tiểu thuyết của Khái
Hưng, phụ nữ hầu như bao giờ cũng giữ phần chủ động.
Và bởi thế, cái mà Vũ Ngọc Phan gọi là "lý tưởng",
"người ở thế gian này không thể nào có được" (trang
829, sđd) không đúng, giản dị chỉ vì khác với đàn ông
(điển hình là Lộc) mà tâm lý đa số là phải có người
yêu bên cạnh để duy trì tình ái, đàn bà tuy được xem là
lệ thuộc vào cảm xúc hơn vẫn có thể lý luận như Mai đã
lý luâän để sống với một thứ hạnh phúc khác không làm
tổn hại đêán ai:
- .phỏng lương tâm chúng
ta có được yên, có để chúng ta an nhàn mà hưởng sung sứơng
chăng? Hãy nói anh đã. Một ngày kia, nhớ tới cụ Aùn, nhớ
tới vợ anh, con anh mà cho dâãu anh không yêu nữa anh khỏi
sao không hối hận, đau đớn khổ sở. Mà em, lúc bây giờ
em nhận thấy rằng chính em đã làm cho anh phải hối hận
đau đớn khổ sở thì em càng hối hâ.n đau đớn khổ sở
gấp mấy? [...] Ngày nay mới có hai người chịu khổ là anh
và em. Nếu ta đi trốn.mà ta làm cho biết bao nhiêu người
vì ta bị khổ lây.
- Ờ này! Sao hai ta lẩn thẩn
lại cứ quanh quẩn mãi trong vòng ái ân, trong sự xum họp
nhỉ. Ta không yêu nhau ở ngoài sự xum họp được ư? (trang
306, 307, 308, 309, sđd)
Cũng trên thực tế, nhiều
người đàn bà trên thế gian này đã vâãn chung thủy
khi chôàng họ phải xa nhà, phải theo đuôåi viêäc chung mà
vắng nhà, mà bị cầm tù, mà có khi bị xử chết nữa. Giữa
Mai và họ chỉ khác nhau ở một điểm: Mai tự nhận Lộc
là chồng để mà chung thủy chứ không câàn đến người
ngoài, kể cả người ngoài ấy là thân mẫu Lộc.
Viết cách đây gâàn 70 năm,
tám trang cuối đó quả đã là những dòng gâàn như tuyệt
hảo về tâm lý tự giải phóng của một người đàn bà.
Cái lý luận ấy cho đến bây giờ vẫn còn có thể áp dụng
được vào nhiều trường hợp . Sự "đường hoàng yêu
nhau" là cái phẩm giá mà người đàn bà phải giữ, phải
trả giá cho tình yêu mình. Chịu một kiếp chồng chung trong
chế độ đa thê ở thập niên ba mươi, bốn mươi của Khái
Hưng hay chia sẻ một người đàn ông núp dưới những bộ
cánh "ngang trái, ái tình lớn" ở thời đại này cũng chỉ
là một sự mất phẩm giá không thể chối cãi được. Người
ta không thể cố tình nhầm lẫn sự phóng túng về tình dục
với tình yêu. Ở thời đại này, càng không thể bào chữa
bởi lẽ người đàn ba økhông những đã có nhiều cơ hội
hơn để sống một đời mình muốn mà còn phải đủ hiểu
biết để tôn trọng phẩm giá của một người đàn bà khác.
Cái lý luận ấy sẽ được
Khái Hưng nhắc lại trong một hoàn cảnh khác, càng rõ ràng
hơn trong Thoát Ly, chuyện một người con gái bị dì
ghẻ đầy đọa:
-.nay suy đi nghĩ lại, nàng
mới thấy sự thoát ly không dễ dàng, giản dị như nàng tưởng
hay như những nhà tiêåu thuyêát lãng mạn tưởng tượng ra.
Chi bằng không thoát ly nữa mà cứ coi như mình đã thoát ly
rồi...Nàng nhớ một lần Nga đọc cho nàng nghe câu tư tưởng
của một nhà hiền triết nào đó: "Có một linh hồn tự do
thì dù sống trong ngục thất, sống trong địa ngục, mình
vẫn coi như không bị giam hãm, xiềng xích" của tư tưởng
ấy trước kia nàng không lưu ý đến, nhưng nay nàng thấy
có một nghĩa rõ rệt và sâu xa. Huống hồ trong cái ngục
thất của gia đình nàng còn có cái mà nàng yêu được: làm
việc, còn có người mà nàng yêu được: cha nàng
.(trang
213-214, sđd)
và:
-.Nàng đã nhận thấy, đã
hiểu rõ rằng chỉ khi nào chính mình quả quyêát để cho
mình yên thân thì mình mới yên thân. Sự bình tĩnh của tâm
hồn không ai có thể cho mình, cũng không ai có thể cướp
của mình được.(trang 216, sđd)
Sang đêán Tiêu Sơn Tráng
Sĩ, hai trong bốn nhân vâät chính cũng là phụ nữ. Người
thứ nhất, Nhị nương cũng là tay kiếm cung ngang dọc, cùng
người yêu Trần Quang Ngọc mưu tính chống Tây sơn, gác lại
chuyện thành duyên. Người thứ hai, Trương Quỳnh Như, giỏi
thơ phú câàm ca, yêu Phạm Thái, tự tử khi bị ép duyên.
Trương Quỳnh Như chết, Phạm Thái hóa cuồng. Bối cảnh tranh
chiến cuối thời Tây sơn cũng là cái hoàn cảnh biến động
thực sự lúc bấy giờ: Nguyễn Bá Học và các đồng chí
Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài, số còn lại
rút vào bóng tối hay lánh nạn sang Trung Hoa và các đảng phái
chính trị được thành lập (kể cả của Hồ Chí Minh) để
chống Pháp. Ở Tiêu Sơn tráng sĩ, vai trò quan trọng của người
phụ nữ trong việc nâng đỡ tinh thần người đàn ông, giúp
họ làm nên viêäc lớn lại được chứng minh qua thí dụ
Phạm Thái. Khác với Nhị Nương vừa xinh đẹp, vừa giỏi
cả văn lẫn võ, Trương Quỳnh Như chỉ là một cô gái con
nhà khuê các có nhan sắc (con gái Kiến Xuyên hầu, quan trâán
thủ Lạng Sơn và em gái của Thanh Xuyên hầu). Tình yêu tiêu
cực của Trương Quỳnh Như rút rỉa hết cái chí ngang tàng,
cái đời phục nghĩa của Phạm Thái:
-.Và chẳng bao lâu, hai người
yêu nhau, say mê nhau, thư từ, văn thơ trao đổi xướng họa
với nhau. Lúc âáy còn đâu là chí phấn đấu, còn đâu là
tình khuyến khích! (Tiêu sơn tráng sĩ, trang 380)
Cái chết của Trương Quỳnh
Như khi thắt cổ tự ải vì bị ép duyên thì cũng là caiù
chết của Phạm Thái, cái chết của một thứ "chí lớn"
chỉ đủ để "đựng đầy hai con mắt mỹ nhân" (trang
420, sđd):
-..Người ấy là Phạm Thái,
cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng trưởng kiêm chức
quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha
trong rừng gươm dáo, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường
không còn một chút nghị lực để phấn đấu.(trang 412,
sđd)
Ngược lại, đoạn đối đáp
cuôái cùng của Nhị Nương và Quang Ngọc ở hồi kết cục
không khác gì đoạn kết liêãu Nửa Chừng Xuân;
-.Nhị Nương kìm cương ngụa,
hỏi vói một câu:
-Nhỡ không hội ngộ?
-Cũng chẳng sao. Vì linh hồn
chúng ta bao giờ cũng ở bên nhau [...] Mà khi ta có việc đáng
thi hành ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng
tình của bạn ta rồi. Vậy thì chúng ta có ở xa nhau đâu?
Tình bằng hữu của chúng ta đã thành một sự thiêng liêng.
Nhị Nương chắp tay vái:
-Vâng, tình bằng hữu của
đôi ta!
Rồi nàng rẽ cương quay
đi.(trang 418-419, sđd)
Người ta không khỏi liên tưởng
đến Nguyễn Thái Học và cô Giang, cùng hoạt động và cùng
chêát cho lý tưởng của họ chỉ gâàn ba năm trước khi Tiêu
Sơn tráng sĩ xuất bản. Cái chết của cô Giang, bằng chính
khẩu súng của mình, là một cái chết dữ dội như những
hoạt động bên cạnh Nguyễn Thái Học.
Những nhân vật nữ này đại
diện cho mẫu phụ nữ coi như lý tưởng của Khái Hưng; thông
minh, có học kể cả nho học và sự mạnh mẽ về cả thể
chất (Hiền của Trống Mái) lẫn tinh thần (Mai của
Nửa Chừng Xuân, Lan của Hồn Bướm Mơ Tiên, Nhị
nương của Tiêu Sơn Tráng sĩ.). Những phụ nữ này với
sự độc lập về tinh thần và dám sống theo ý họ sẽ là
lớp phụ nữ đầu tiên của một thế hệ rồi ra sẽ phải
đương đầu với một thời kỳ lịch sử nhiều biến chuyển
về xã hội và tang thương về lịch sử. Họ là những người
sẽ đi tiên phong để sửa đổi một xã hội điêu đứng
về nạn quan liêu ở trên, mục nát vì nạn cường hào ác
bá ở dưới mà những người vô tình hay cố ý tiếp tay nhiều
nhất lại cũng là những người đôàng phái với họ. Bởi
thế, Khái Hưng lại có một số tiểu thuyết mà nhân vật
nữ chính là tiêu biểu cho lớp phụ nữ này.
II-NHỮNG TÀO THỊ
Trong ba truyện dài kế tiếp,
Gia Đình (1935), Thừa Tự (1936) và Thoát Ly
(1936), cả những nhân vật chính và đông đảo nhân vật phụ
là phụ nữ.
Trong Gia Đình, có ba đôi
vợ chồng với ba cách sống, ba chí hướng khác hẳn nhau.
Phụng, Nga và Bảo là con gái một ông quan Aùn. Phụng lấy
Viết, một ông tri huyện với đủ mọi chước làm tiền đám
dân đen. Nga lấy An, chỉ mới đậu Tú Tài. Tham tiếng bà
quan, Nga dở đủ thứ mánh khóe đàn bà, đẩy An trở lại
học luật. Nga thành công khi An làm theo ý mình nhưng gia đình
sinh ra lủng củng vì An ngán ngẩm cảnh bóc lột kẻ dưới,
luôn lọt người trên. Chỉ có Bảo và Hạc thoát ra khỏi
đời sống rữa mục này bằng cách lập đồn điền, tự
lực cánh sinh và tìm nguồn vui ở sự giúp đỡ dân quê chung
quanh.
Sang đến Thừa Tưï và
Thoát Ly, một thảm cảnh khác bày ra vì nạn mẹ ghẻ
con chồng. Hai anh em Trình và Khoa vì ham số tiền "thừa tự"
mà bà Aùn Ba nhử đâm ra nghi kî lẫn nhau, suýt nữa tan tành
huynh đệ. Ở Thoát Ly, Hồng ốm nặng rồi qua đời
sau khi đã bị mẹ ghẻ là bà Phán Trinh tìm đủ mọi cách
hãm hại, từ việc xui bẩy chồng bắt Hôàng bỏ học, đẩy
chồng vào chỗ ghét bỏ Hồng đến lập mưu để Hồng không
thể có ai đến cưới vì mang tiếng hư hỏng:
-.Trươcù kia, cũng có lần
ông bênh con, bênh không phải vì yêu con mà vì thấy vợ vô
lý quá. Nhưng làm thế chẳng ích gì cho ai: Hồng càng bị
ghét, nhà càng ầm ĩ, ông càng khổ sở vì nỗi bị vợ dằn
văët suốt ngày đêm. Dần dần ông hiểu tới sự lặng thinh
của sự trung lập.Rồi chẳng bao lâu, ông phán bỏ cái địa
vị trung lập mà vào hẳn phe vợ.(trang 136-137, Thoát Ly)
Ba tác phẩm này là ba bản
án nặng nề cho cái xã hôäi ruỗng nát, chà đạp lên quyền
tự do cá nhân, nhất là quyền được sống có phẩm giá của
những cô gái có học hay muốn được đi học. Khái Hưng đã
cực tả được tâm lý, toan tính và những thói rất xấu
của phụ nữ để đạt được ý mình như lấn lướt chồng
đến nỗi họ phải đầu hàng để yên thân, phải lao thân
vào chỗ quan trường, phải hành hạ cả con ruột của họ.Những
bóng lọng của một thơiø sơn son thếp vàng với "võng anh
đi trước, võng nàng theo sau" với những phụ nữ cúi mặt
khuất phục những hủ tục, với những người đàn bà hành
hạ người cùng phái với mình để thỏa cái tính ganh tî,
độc ác, nhỏ nhen, tham lam trong khi dân lành rên rỉ dưới
nạn cường hào ác bá, bán con cấn nợ do chồng họ-những
ông quan ngồi chễm chệ ở mọi nơi- tác oai tác quái nhưng
rất sợ vợ hoặc nhắm máét nghe lời vợ .đều có đầy
đủ trong những tác phẩm này:
-.Không biết bà phán Trinh
có sợ bà không, nhưng chẳng bao lâu chính bà phải sợ bà
phán. Bà này xui xiểm chồng, bắt ép chồng nói xấu ông phủ
với ông đại lý mà bà biết là một người rất đa nghi
và rất thích ăn lễ. Ông phán nghe theo, thuật lại với ông
đại một câu phàn nàn hỗn xược cảu ông phủ. Mấy hôm
sau, ông đại lớn tiếng cự ông phủ ở ngay trước mắt
dân sự đông đảo.(trang 71, Thoát Ly)
Muốn thay đổi cái xã hội
ấy, chỉ có cách thay đổi những người đàn bà như các
bà Aùn, bà Phán, bà Huyện mà sự tư lợi, mà thói quen ăn
trên ngồi trốc đã làm cho xã hội càng lúc càng sa đọa.
Với những người đàn bà này, ra làm quan không phải để
giúp dân mà chỉ để có tiếng làm "bà" và có cơ hội đục
khoét để sinh lời cho bõ những lúc thiếu thốn hay đua giàu
vói chị em. Những ngươiø đàn ông sinh trưởng trong những
gia đình với những người mẹ người vợ như thế khó tránh
được trở thành những kẻ nhu nhược, ích kỷ và thậm chí,
yếu đuối như Lộc, như ông phán Trinh, như An.
Ngoài những tác phẩm ấy,
Khái Hưng còn viết về những vấn đề muôn thủa liên quan
đêán phụ nữ và nghệ thuật. Điển hình là
Đẹp. Đẹp
là câu chuyện của một họa sĩ kết duyên với con gái của
người bạn mình, nhỏ tuôåi hơn nhiều và trước khi lấy
nhau, nàng vẫn phải gọi chàng là "chú". Đây không chỉ giản
dị là một mối tình mà người nữ đem lòng yêu một người
lớn tuôåi hơn mình. Bởi thế, không phải tự nhiên Khái
Hưng lại dựng nhân vật -chu ùNam- là một họa sĩ.
Mối tình khác thường (chú
cháu) của Lan và Nam chỉ để làm nền cho một vấn đề sâu
xa hơn: với các người sáng tạo, liệu tình yêu buổi đầu-
dù tình yêu ấy phải vượt qua những cổ lệ thông thường,
gần như cấm kî - khi biến sang hôn nhân liệu có còn giữ
được những cảm xúc mới mẻ, dồi dào để người ta tiếp
tục sáng tác? Hay cái vòng thê tróc tử phọc sẽ làm người
ta cùn mằn và giết luôn cả tình yêu đó đi? Liệu nguồn
cảm hứng-người yêu- sẽ còn nguyên vẹn ("Trong một giây
cái hy vọng lớn lao hiện ra, rõ rệt, to tát: Lan sẽ mãi mãi
là nguồn cảm hứng của chàng, khi Lan đã là vợ chàng cũng
như khi Lan hãy là hôn thê của chàng" trang 82, Đẹp) hay
sẽ biến thành một "bà sư tử ghen lồng lên" (Đẹp,
trang 97) hoăëc một người vợ chịu đựng, cái chịu đựng
chỉ làm người chồng bẳn gắt thêm, vì sự ràng buộc vô
hình trói chặt?
-.Mà dẫu cho chúng ta thành
thực yêu nhau nữa, thiết tưởng chúng ta cũng nên vì nghệ
thuật mà hy sinh ái tình của chúng ta. Ràng buộc một nghệ
sĩ vào trong gia đình tức cũng như đem cây đa mà trồng vào
môät chiêác châäu sứ. Cây sẽ cằn cỗi, không nẩy nở
được mà cái chậu sứ có khi bị nứt vỡ.(trang 79, Đẹp)
Đó là câu Nam nói với Lan
chỉ một ngày trước khi nhờ anh hỏi Lan cho mình. Và ngay
lập tức, chỉ sau vài tháng ngắn ngủi, sự lo sợ của Nam
biến thành sự thật: Lan trở nên ghen tuông vô cớ và nếu
không có Trinh- người bạn gái bị nghi ngờ-đủ thông minh
để tỏ cho Nam biết không phải cô cháu nào cũng yêu ông
chú, bạn của bố mình, thì chưa biết cuộc hôn nhân của
Lan và Nam có tồn tại được không.
Khái Hưng, một nhà văn tinh
tế mà mỗi tác phẩm là một câu hỏi về đời sống (Trôáng
mái, Tiêu Sơn Tráng sĩ, Nửa Chừng Xuân.) không chọn Đẹp
để làm tên cho cuốn truyện một cách vô cớ: ông chọn Đẹp
để nói về cái đẹp của nghệ thuật, một cái
đẹp trừu tượng lấy cảm hứùng rất nhiều ở một
cái đẹp cụ thể khác (người đàn bà) nhưng liệu
hai cái đẹp này có sống chung nổi, song song bên cạnh
nhau không? Câu trả lời là không.
III. VẦN ĐỀ PHỤ NỮ THỜI
KHÁI HƯNG
Không phải là một sự vô
tình mà tất cả các nhân vật chính của Khái Hưng dù tốt
đẹp hay xấu xa, đều là phụ nữ. Càng không phải là vô
tình mà những nhân vật nữ tốt đẹp như Mai, như Nhị nương,
như Bảo, như Lan .lại là những người đứng bên cạnh hay
đằng sau để thúc đẩy, khuyến khích người yêu, người
chôàng của họ để làm việc xã hội hay dấn thân cả vào
những việc nguy hiểm cho bản thân chỉ để hy sinh, mưu cầu
hạnh phúc chung cho mọi người. Sự không vô tình này càng
được xác nhận bởi thứ nhất Khái Hưng thuộc Tự lực
văn đoàn, nhóm nhà văn chủ trương thay đổi xã hội mà trước
hết, phải thay đổi số phận phụ nữ. Thứ hai, Khái Hưng
không là một nhà văn chỉ có sáng tác. Oâng còn hoạt động
chống Pháp (bị bắt đi an trí ở Vụ Bản, Ninh Bình) rôài
sau đó chống lại cộng sản và trả giá bằng chính cái chết
thê thảm của mình khi người cộng sản thủ tiêu ông năm
1947:
-.Gia đình tôi dạo ấy ở
80 phố Quan Thánh. Căn nhà hai tầng có vườn bao bọc, trước
là tòa soạn tờ Ngày Nay, tờ Chủ Nhật và sau này tờ Việt
Nam cơ quan tranh đấu của Việt Nam Quốc dân đảng. Hồi hè
năm 46 Việt Nam phải hạ bảng. Các đảng viên cao cấp lánh
sang Trung Hoa. Riêng ba tôi thuộc thành phần những người ở
lại bí mật phụ trách bộ Tuyên huấn của đảng với bí
danh Trần Lâm. Còn một chuyện chắc ít người được biết
là trong thời kỳ đó ngoài việc hoạt động cho đảng, ba
tôi dự tính mở tờ Thòi Phong, một tờ báo hoàn toàn có
tính cách văn nghệ cùng với một đồng chí trẻ tuổi-anh
Bảng (người phụ trách Chuyện lẩn thẩn" trong tờ Việt
Nam ký tên Chàng lẩn thẩn-sau này khi chiến tranh bùng nổ
anh bị bắt ở Bắc Ninh). Dù trong tình hình gay go đến như
vậy ba tôi vẫn cùng anh Bảng say sưa hoạch định tương lai
cho tờ báo. Hai người mươnù một tòa nhà ở phố Thái Phiên
mời cụ Phan Khôi lại bàn soạn. Qua câu chuyện của những
người lớn đó (lẽ tất nhiên tôi chỉ đựơc nghe lỏm)
thì tờ báo sẽ ra mắt độc giả vào khoảng tháng giêng năm
1947. Tiếc thay dự tính ấy chẳng bao giờ thành được.
(Ba Tôi, Trần Khánh Triệu (1)
, Văn số 22, ngày 15.11.1964- trích lại trên Tự Lực Văn Đoàn-Con
Người và Văn Chương)
Việc Khái Hưng tham gia Quốc
Dân Đảng và từng phải đương đầu với cộng sản dược
đảng viên kỳ cựu Hoàng Văn Đào ghi lại trong cuốn Việt
Nam Quốc Dân Đảng-Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954
như sau:
-.Bởi lý do trên, vào thượng
tuần tháng 7 năm 1946, chiếu nhu cầu đảng vụ, Trung ương
đanûn bộ Q. D. Đ. được tổ chức lại gồm [.] Khái Hưng,
[.] Phan Khôi, Hồng Vân [.]
Đến ngày 20 tháng 10.1946,
ông Hồ Chí Minh về tới Hải Phòng, truyền đơn phản đối
họ Hồ đuực giải khắp mọi nơi. Thừa đêm khuya, công an
C.S. đến vây tòa báo "Việt Nam" ở số 80 phố Quan Thánh.
Trong tòa báo đêm ấy hiện diện có gia đình Khái Hưng, Phan
Khôi, Nguyễn Mộng Công, Nguyễn Xuân Tùng, Vũ Đình Trí tức
Vũ Hoằng, Hưng Việt, Hồ Lễ cùng một số ấn công. Thâáy
công an C.S. đến vây đòi khám xét, Khái Hưng ra lệnh đóng
chặt cửa, rồi rút hết lên lâàu. Đập phá cửa không đuọc,
công an C.S. nổ súng bắn lên, trên lầu tức thời cũng bắn
xuống.(trang 318-319, sđd)
Khái Hưng có cả kinh nghiệm
của một người chịu thảm kịch mẹ ghẻ con chồng ( "sinh
trưởng trong môät gia đình quan lại nhưng ngay tự tấm bé
theo lời mẹ tôi thuật lại, ba tôi đã phải chịu cảnh hành
hạ của dì ghẻ khắc nghiệt. Phải chăng vì phải chịu đựng
hoàn cảnh âáy ba tôi đã có kinh nghiệm sống để viết nên
hai cuốn Thoát Ly và Thừa Tưï?.-trang 150, sđd); nhưng cũng
lại là người may mắn được người vợ giúp đỡ (như một
số các đồng chí, bạn hữu) để có thể dồn héát nỗ
lực vào việc viêát và tham gia cách mạng. Đó cũng là lý
do giải thích các nhân vật nữ tốt đẹp của Khái Hưng đều
học ít nhiều chữ nho và những ông tú như thân phụ của
Mai hay quan Kiêán Xuyên hầu, thân phụ của Trương Quỳnh Như
đều là những nhà nho có tiết tháo:
-.Đến đây tôi cảm thâáy
có bổn phận nói về mẹ tôi một đoạn vì chính nhờ mẹ
tôi mà ba tôi mới khỏi lo nghĩ về sinh kế để có thể sáng
tác nhiều văn phẩm như vậy. Mẹ tôi tên thật là Lê Thị
Hòa, biệt hiệu Nhã Khanh, con của một vị thượng thư đậu
cử nhân triều Nguyễn.Mẹ tôi viết chữ nho rất đẹp, tính
tình đoan trang ít nói, hiểu rộng về Hán học.(trang 152,
sđd)
Không có sự nâng đỡ tinh
thần rất cần thiết này, người đàn ông -như chính bản
thân Khái Hưng- sẽ máát một phần nương tựa rất lớn.
Cũng vì kinh nghiệm bản thân mà Khái Hưng đặt trách nhiêäm
hêát sức nặng vào người phụ nữ: họ là cái sức đâåy
người một người đàn ông do dự ra chỗ hành động. Nhưng
họ cũng là người dìm người đàn ông và thế giới chung
quanh vào chỗ trầm luân nêáu không ý thức được bổn phận
với xã hội.
Ở cuối đời, Khái Hưng càng
tỏ rõ sự muốn thay đổi xã hội đang nô lệ Pháp và cùng
lúc chống lại những người cộng sản lúc bấy giờ bằng
văn chương:
-.Khái Hưng bộc bạch nhũng
suy tư mà anh đã có sau khi có cuộc nói chuyện trước. Anh
nói :
".Cuộc cách mạng đã dọn
chỗ cho môät trào lưu mới về văn nghệ. Văn hóa cứu quốc
nay đóng vai trò văn chương ca tụng để (tô) điểm tòa kiến
trúc mới là chế độ cộng sản. Tôi nghe chừng chúng ta,
vì chống báng chế độ, chúng ta phải sáng tạo những giá
trị mới, làm một thứ "văn chương sáng giá" như lời của
anh. Phải có giá trị mới thắng họ được."
(Khái Hưng, Người thứ nhất
muốn làm nguyên soái của "văn chương sáng giá", Hồ Hữu
Tường, Văn số 22, ngày 15.11.1964 - Trích lại trong Tự Lực
Văn Đoàn-Con Người và Văn Chương, trang 171, xuâát bản tại
Sàigòn năm 1989)
Các nhân vật câáp tiến của
Khái Hưng thuộc giai cấp tiểu tư sản, cái giai cấp sẽ không
bao giờ sống sót được với người cộng sản nếu như không
trực tiếp tham gia và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp
và chống lại người cộng sản. Như Phan Khôi (2), người
cổ võ giải phóng phụ nữ, sẽ cùng chịu chung số phận
với Khái Hưng.
Xa hơn nữa, Khái Hưng nhìn
thâáy một mối nguy khác. Tác phẩm cuối của Khái Hưng,
Băn
Khoăn (1942), bầy tỏ tình trạng đáng ngại của giới
trí thức mới, xuất thân Tây học thời bấy giờ, một lớp
người sa đọa khác. Thay chỗ cho những cô vợ lẽ nàng hầu,
những người chồng chính thức là những người tình qua đường,
tay đôi, tay ba, tha hồ chung chạ. Kế chỗ cho những ông quan
nhũng lạm là những người làm giàu bằng đủ mọi cách.
Đó là sự báo động, chứ không là một sự tương phản
giữa một tác phẩm có những nhân vật sôáng không lý tưởng,
vô định với một tác giả dấn thân hẳn vào một cuộc
sống nguy hiểm nhưng có mục đích. Tình trạng vô trách nhiệm
này của giới trí thức đã được một tác giả khác nói
đến mười năm trước đó ở một khía cạnh khác:
-.Đôái với các vấn đề
xã hội quan hệ, như phụ nữ giải phóng, như lao động giải
phóng, như bót giờ làm tăng tiền lương, nếu có người nghiên
cứu cho xác thật, dựa vào luật tiêán hóa của lịch sử
và nền móng kinh tế, là những việc hiển nhiên không chôái
cãi được, rồi kêt luâän phải đổi chế độ gia đình
cho phụ nữ , phải bớt giờ làm cho lao động, thì bọn hưởng
quyền lọi thuở giờ, với bọn trí thức tôi mọi nọ hô
lên là cấp tiến, là cách mạng đặng làm kinh hôàn mất
vía bọn trung nhân và bọn lao động cùng phụ nữ chưa giác
ngộ.
Cái thái độ khả ố ấy,
cái bọn trí thức lường gạt ấy, cần phải vạch măt chỉ
tên cho quần chúng thấy rõ ràng. Nếu không thì trên con đường
tiến hóa của nhân loại, không thể bước tới được một
bước nào hết. Luôn dịp đây, tôi xin nói thêm rằng: một
cái ý kiến chi là hũu ích cho nhân loại bị áp bức, tức
là lao động vói phụ nữ, thì thế nào cũng chọi với bọn
trí thức tôi mọi của mááy người đi áp bức kẻ khác."
(Nguyễn Thị Chính (3) Trả
Lời bài Vấn Đề Phụ Nữ Giải Phóng với Nhân Sinh Quan,
Phụ Nữ Tân Văn bộ 4, số 162, ngày 4.8.1932, trang 9 - Trích
lại từ "13 Năm Tranh Luâän Văn Học", tâäp III, trang 147)
Nửa thế kỷ sau khi người
cộng sản giết Khái Hưng, họ đã làm cho người phụ nữ
Việt trở thành một thứ nô lệ không công cho nhà nước.
Những tuyên ngôn "bình đẳng, bình quyền" chỉ là một thứ
giải thưởng hứa hẹn không bao giờ trao. Người đàn bà
vừa phải ra trận cầm súng, vừa phải cáng đáng việc nhà.
Cho đến bây giờ, những chức cao nhất của nhà nước đa
số vẫn năèm trong tay đàn ông. Người cộng sản lại không
thể bảo vệ họ bởi hai thứ tai họa truyền kiếp: phụ
nữ Viêä Nam bị băét cóc đưa sang Trung Hoa và tình trạng
đói khổ khiến nạn mãi dâm, nhâát là mãi dâm với trẻ
em trở nên trầm trọng.
Ở miền Nam, chiến tranh cũng
làm chậm lại những nỗ lực cải tiến đời sống phụ nữ.
Có thể nói, sau Tự Lực Văn Đoàn, đã không có nhóm nhà
văn nào đặc biêät chú trọng vào nữ giới, coi họ như điều
kiện cần thiết để xây dựng gia đình và một xã hội tiến
bộ; sau Phụ Nữ tân văn đã không có tờ báo nào do phụ
nữ làm chủ nhiệm mà quy tụ dược những nhà văn tăm tiếng;
sau Phan Khôi, đã không có nhà văn nào bênh vực cho quyền
bình đẳng của họ một cách hết sức tha thiết; sau Khái
Hưng, đã không có nhà văn nào đặt hầu như toàn thể tác
phẩm mình vào những nhân vật nữ.
Đáng suy nghĩ hơn, là một
vài nhà văn được hâáp thụ những tư tưởng mới, được
tự do, lại viết những câu rất làm độc giả kinh ngạc
về sự thiếu tiến bộ của chúng:
-.Em cho người đàn bà nào
đã lập gia đình mà còn bỏ gia đình để làm việc xã hội
là người đàn bà dại dột và tội lỗi. Vì xã hôi chưa
thiếu đàn ông, chưa cần đến họ. Các nhà tư tuửng truớc
kia đặt vấn đề nam nữ bình quyền quả có những khối
óc u tối. Em là đàn bà, em xét trong mình em, thấy những kỳ
kinh nguyệt, những thời gian thai nghén, thậm chí đến vị
trí nằm ở dưới người đàn ông trong cuộc giao hợp-vị
trí thuận lợi cũng như sự chứa đựng- đều chứng tỏ
người đàn bà chỉ có sứ mạng nuôi nâáng, giữ gìn, nên
không thể giành quyền lãnh đạo xã hội của người đàn
ông, mà đôäng tác nào cũng nói lên sự công phá tiến tới
.
(Tình Cao Thượng, Nguyễn Mạnh
Côn, trang 102, in lại ở Hoa Kỳ, không rõ nhà xuất bản)
-.Nếu không đứng về phương
diện văn hóa mà chỉ xét hạnh phúc của bạn gái thì tôi
thấy phụ nữ nên giữ nhiệm vụ khuyến khích hơn là sáng
tác nghệ phâåm.Cho nên tôi không đồng ý vói nữ sĩ Hợp
Phố khi bà nói như vầy với nữ sinh trường Trung học Nguyễn
Đình Chiểu ở Mỹ Tho, trong một cuộc triển lãm sách báo
do trường tổ chức:
- Các em thấy không? Trong
giới văn nghệ, chị em chúng mình chiếm một địa vị khiêm
tốn quá. Các em sau này rán lên nhé?
Rán mà làm chi? "Sáng tác"
nhưnõg em nhỏ mụ mẫm.rồi trong khi em ngủ, đọc tiểu thuyết
chăúng thú hơn là bước vào cái ghề kỳ cục bạc bẽo là
nghề viết văn, vò đầu nặn óc để "đẻ" ra những trang
mà chỉ sáu tháng sau, đọc là muốn xé vụn, liệng hết vào
giỏ rác ư? Rõ là môät lời xui dại!
(Nghề Viết văn, Nguyễn Hiến
Lê, trang 58-59, in lần đầu năm 1955, tái bản tại Sàigon năm
1968. In lại ở Hoa Kỳ, không rõ nhà xuất bản và năm in)
Những ý kiến xem ra cố chấp,
bảo thủ một cách hẹp hòi này thật ra có thể giải thích
được vì người ta -như Nguyễn Mạnh Côn- vẫn nhầm lẫn
rằng chỉ có người đàn ông mới có thể "công phá, tiến
tới, lãnh đạo xã hôäi" vì người đàn ông không có bổn
phận nuôi dưỡng con cái như người đàn bà. Lịch sử đã
chứng minh khả năng sinh nở hay nuôi dưỡng chăm sóc con cái
không phải là yếu tố quyết định về việc tham gia những
công việc xã hội. Như tướng Bùi Thị Xuân chẳng hạn. Một
lý do quan trọng hơn, là cả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Mạnh
Côn đều không phải là những người thực sự hay trực tiêáp
tham dự vào thời kháng chiến chống Pháp rôàI chống cộng
sản như Khái Hưng, như Nhất Linh, như Hoàng Đạo, như Phan
Khôi.Không ở trong những môi trường thuận tiệân để có
thể chứng kiến khả năng này của phụ nữ thì sự nghi ngờ
là đương nhiên thôi. Còn nói sang lãnh vực văn chương, từ
54 cho tới 75, tuy Miền Nam có một số nhà văn nữ nhưng sự
nghiệp của họ đã không có tính cách tiên phong như Phụ
Nữ tân văn mà văn chương cũng chưa vượt được nam giới
thời bấy giờ, đủ để phải kính nể hơn.
Tuy thế, những lời ấy viết
ra ở những năm cuối của thâäp niên 50, 60. Còn có lời khác
viết ngay ở cuôái thiên niên kỷ này:
-.Mãi vẫn còn phải tìm
hiểu thêm viết thêm, còn lâu mới đủ sáng tỏ mọi điều:
các vua Hùng có hay không có? Mỗi vua sống được mấy trăm
năm? Vú bà triệu Aåu đích thực dài mááy thước? ..v v và
vv..
(Võ Phiến trả lời tờ Văn
Học trong "Phỏng vấn nhà văn Võ Phiến về bộ sách "Văn
Học Miền Nam", bđd, trang 19, số 169, tháng 5.2000)
Nhà văn Võ Phiến tuy không
sở trường về phê bình văn học như sáu cuốn sách viết
về Văn học Miền Nam của ông đã chứng tỏ nhưng không thể
vô ý hay ít chữ đến nỗi bắt chước người đô hộ Tàu
sỉ nhục một vị anh hùng dân tộc băèng cái chữ xách mé
"Triệu âåu" (Thuỏ mới lên Trung Học, học sinh ở Hà Nội
và sau này ở Sài gòn , đều được dậy rằng phải gọi
vị nữ anh thư dân tộc này là Bà Triệu, phải tránh chữ
Triêäu ẩu là chữ bọn Tàu dùng để bôi xâáu bà).
Chưa kể còn làm người đọc khựng lại vì cái chất thô
lỗ khi nói (hay viết?) ra được cái câu phỉ báng ở trên:
"Vú bà Triệu ẩu đích thực dài mấy thước?" Nhà văn
Võ Phiến có cần phải biết
đích thực về cái chi
tiết này để đánh giá công nghiệp cứu nước của bà Triệu
không? Dĩ nhiên là không. Đó chỉ là cái tâm lý coi thường
phụ nữ mà trong một lúc xuất kỳ bất ý, Võ Phiến đã
để lộ ra. Cái tâm lý ấy không thể thiệt hại đến những
thành quả đạt được của nữ giới, song là một thứ thí
dụ điển hình của sự chậm tiến về tư tưởng của môt
số người cầm bút đối với nữ giới, khi nói đến Nữ
giới.
Bao giờ thì văn học sử lại
được chứng kiến môät cuộc chấn động khác mà phụ nữ
là tâm điểm của những vòng sóng tỏa ra, lan ra từ văn học
cho tới xã hội? Cuộc chiến tranh chống Pháp, chôáng hâäu
quả của một nền khoa bảng không còn hợp thời tạo ra những
người lãnh đạo hèn kém đã gây ra cuộc chấn động ở
thập niên ba mươi. Phải chăng ở thập niên 70 rồi 80 và
90, chúng ta đã bỏ lỡ cái cơ hội để tạo một cuộc chấn
động khác khi chống lại đảng cộng sản và những hậu
quả cũng kinh khủng không kém của chế độ này? Chúng ta
không có tài lãnh đạo, thiếu ý thức kết hợp hay giản
dị vì chính chúng ta không quan tâm đến?
Một tác giả có lẽ thành
công nhất khi sống được cái lý tưởng trong tác phẩm của
họ. Nguòi ta vẫn nhắc đến
Nửa Chừng Xuân và bài
thơ Tình Tuyệt Vọng (dịch Sonnet d'Arvers của nhà
thơ Alexis Félix Arvers, 1806-1850) nhưng Khái Hưng đã sống đúng
cuộc đời của một tráng sĩ như những tráng sĩ của đảng
Tiêu Sơn. /.
Nguyễn Tà Cúc.
CHÚ THÍCH:
1. Trần Khánh Triệu tên thật
là Nguyễn Tường Triệu, con ruột của Nhất Linh sau thành
con nuôi của Khái Hưng (Khái Hưng tên thật là Trần Khánh
Giư)
2. Phan Khôi -theo Hoàng Văn Đào
trong cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng- là chủ tịch tượng
trưng cho Tỉnh Đảng Bộ Quảng Nam của VNQDĐ năm 1946.
3. Bà Nguyêãn Thị Chính là
người viết cuốn "Critique de la question feminine" (Phê bình vâán
đề phụ nữ) mà Phan Khôi nhắc đến trong bài " Vấn đề
giải phóng phụ nữ và nhân sinh quan" đăng trên Phụ nữ tân
văn số 160, ngày 21.7.1932. Đoạn trên trích trong bài bà trả
lời Phan Khôi, có tựa là " Nguyễn Thị Chính trả lời bài
Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan" (bđd). |