I. KHI SỰ THỰC BỊ ÁM SÁT TRÊN
ÐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH
Bằng khẩu hiệu "giải phóng quê
hương khỏi quân xâm lược Mỹ và bọn bù nhìn Ngụy," Hồ
Chí Minh và chính quyền côäng sản miền Bắc đã đẩy quân
xuống miền Nam. Nhưng chỉ mới chưa đầy 50 năm sau, đã có
những tài liệu lịch sử cho thấy ngược lại. Trong một
bài báo tựa đề "Peacetime Mileage on War Route" (David Lamb ) đăng
trên tờ Los Angeles Times, ngày Thứ Năm, 20.7.2000 về dự án
400 triệu mỹ kim để biến đường mòn Hồ Chí Minh thành
xa lộ Hồ Chí Minh, đã viết râát rõ như sau:
-...Hanoi long maintained that the war
against the Saigon regime was fought by indigenous Viet Cong guerrilas,
not North Vietnamese soldiers, and that Hanoi's direct support of the Viet
Cong was in response to the landing of the first U.S. combat troops, in
Danang on March 8, 1965. But the history of the trail- which is the history
of the war itself- indicates that Hanoi's battles plans were drawn a full
10 years before the arrival of the first two Marine battalions [...] On
May 19, 1955, Ho Chi Minh's 65th birthday, Maj. Vo Bam, a defense
supply specialist, was instructed to find a supply route south....
(Từ lâu nay Hà Nội vẫn duy trì
rằng cuộc chiến chống lại chính phủ Miền Nam đã được
tham chiêán bởi quân du kích Việt Cộng tại địa phương,
chứ không phải bởi quân đội BắcViệt, và sự giúp đỡ
trực tiếp của Hà Nội cho Viêät Cộng là để đáp ứng
lại việc nhóm quân tác chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên
Ðà Nẵng ngày 8 tháng ba, 1965. Nhưng lịch sử của đường
mòn (Hồ Chí Minh) mà cũng là lịch sử của cuộc chiến này
- cho thấy Hà Nội đã dự bị cho cuộc chiến ááy cả mười
năm trước sự đổ bộ của hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục
Chiêán (Mỹ.)[...] Vào ngày 19 tháng 5, năm 1955, sinh nhật thứ
65 của Hồ Chí Minh, Thiếu Tá Võ Bam, người chuyên về tiếp
tế chiến phẩm, được chỉ thị tìm một con đường tiếp
tế xuôi nam ...)
Người ta cũng đặc biệt chú ý
đến một đoạn ngắn liên quan đến nhà văn Lê Minh Khuê,
người từng được chính phủ cộng sản Việt Nam gửi ra
ngoại quốc để cổ võ cho sự "hòa giải" một chiều qua
cuốn The Other Side of Heaven, một tuyển tập có truyện
ngắn tham dự của các nhà văn Việt Nam trong và ngoài nước
với các nhà văn Hoa Kỳ.
-...Ho Chi Minh trail,...will remain entwined
in the myths and realities of war- in the relentless U.S. bombing[...]
in the kinship that bonded people who lived and worked on the trail, sometimes
for years at a stretch, and found in their communal hardship an inexplicable
romanticism and contentment.
"I loved everyone with a passionate
love," wrote Le Minh Khue, 51, a Hanoi novelist who, as a teenager,
spent five years on the trail repairing bombed roads. Of her feelings and
her fellow workers and the southbound boy soldiers everyone called the
"Hanoi men," she wrote that it was a love "that only someone that stood
on that hill in those moments could understand fully. That was the love
of the people in smoke and fire, the people of war."
(Ðường mòn Hồ Chí Minh..., sẽ
mãi mãi được bện chằng chịt vào những huyêàn thoại và
những dữ kiện có thực của chiêán tranh- trong những cuộc
dội bom tàn nhẫn của Hoa Kỳ,[...] trong tình đồng đội đã
buộc chặt những người đã sôáng và làm việc trong con đuờng
mòn này, có khi trải nhiều năm trong một lần (công tác),
và tìm thấy trong sự khó khăn chung một thứ lãng mạn không
thể giải thích được và một sự mãn nguyện...
"Tôi yêu mọi người với cái tình
mê đắm," Lê Minh Khuê, một nhà văn Hà Nội, 51 tuổi, từng
bỏ ra năm năm của tuổi thiếu niên trong đường mòn HCM với
phần vụ là sửa chữa lại những khúc đường bị dội bom,
viết như vậy. Về tình cảm mà bà dành cho đồng đội và
những bộ đội trên đường xuôi Nam mọi người gọi là
"đoàn trai Hà Nội", bà viết rằng đó là một thứ tình yêu
mà chỉ có người nào đã đứng trên ngọn đồi ấy vào
đúng giây phút ấy mới có thể hiểu đến tận cùng. Ðó
là tình yêu của người trong khói lửa, người của chiến
tranh...")
Cũng theo bài báo trên, 20 ngàn lính
bộ đội và đồng chí của họ từ miền Bắc đã chêát
dọc theo đường mòn HCM. Và mới vào năm 1968, đã có tới
150 ngàn bộ đội
Bắc Việt xâm nhập được vào
Miền Nam bằng lô'i này. Ðọc những tin tức ấy, người ta
không khỏi liên tưởng đến một vài đoạn khác trong cuốn
"Ðêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn Vũ Thư Hiên, một đảng
viên Cộng sản sau bị cầm tù và được xem là một trong
những nhà văn Miền Bắc rất được các bạn ta như nhóm
Người Việt, Thế Kỷ 21, đài phát thanh VNCR...ra rả cổ võ
và không từ một cơ hội nào là không đăng những lời vàng
ngọc của bạn ta lên báo, kể cả một câu xách mé "cũng
có văn học Việt Nam hải ngoại nữa à? " làm một nhà văn
bình thường rất lịch sự như Phạm Xuân Ðài không chịu
nổi phải rón rén có vài lời bàn La Sát. Ðoạn ấy được
viết và ghi thêm dưới dạng chú thích như sau:
-...Trong công tác phóng viên tôi
đã đến khu tự trị Việt Bắc và Khu mỏ nhiêàu lần. Trở
về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện
dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi trong những
khu rừng quê hương, nay đã trở thành khu vực đóng quân của
Trung Quốc, những người thợ mỏ muốn đi tắt qua phần đất
đã được giao cho Trung Quốc (1) bị bộ đội Trung Quốc xua
đuổi...(trang 230,sđd) [...] Oâng Hoàng Văn Hoan viết về
sự kiện Hoa quân nhâäp Việt như sau:"từ năm 1965 đến năm
1970...theo yêu cầu của Hồ Chủ Tịch và Trung Ương Ðảng
lao động Việt Nam, Mao chủ tịch và Trung Ương Ðảng côäng
sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc..."
vào Việt Nam (Giọt Nước Trong Biển Cả, tr. 345, Hoàng Văn
Hoan) Ta có thể tin vào con số mà Hoàng Văn Hoan đưa ra. Trong
giai đoạn quân Trung quốc vào Viêät Nam ông còn là ủy viên
Bộ Chính Trị, ông không thể không biết những việc lớn
như việc này...(trang 231, sđd)
Tệ hại hơn:
-... Nguyễn Chí Thanh, người nắm
thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục đồ bản
của Trung Quốc in bản đồ 1/1000 là thứ bản đồ dùng cho
pháo binh 'Ðó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự
guyện trao cho nước khác. Sao nó ngu thế? Sao nó bậy thế!',
ông bực bội kêu lên...(trang 231, sđd)
Nghĩa là những bộ đội như nhà
văn Lê Minh Khuê thay vì ở lại Bắc Việt chống quân Trung
quốc được Hồ Chí Minh "mời' vào rôài mượn cớ mà chiếm
đất, cấm dân Việt Nam đi lại ngay trên đất nước Việt
Nam ...lại ù té vượt Trường Sơn, đòi giải phóng chúng
ta! Khốn thay cho cái thân phận bị lừa! Nhưng xem ra không
chỉ có các nhà văn miền Bắc mới bị lừa: các nhà văn
Miền Nam đã phải bỏ chạy ra hải ngoại cũng bị lừa nữa.
Thế mới oan trái kiểu Thị Màu chứ. Bằng cớ là vào năm
1995, tám nhà văn trong số có cả Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác
(chủ trương tờ Văn Học)...đùng đùng góp truyện với các
nhà văn Việt Nam (không có một nhà văn nào trước 75 của
miền Nam có truyện được chọn) và một số nhà văn Mỹ
để cho ra đời cuốn The Other Side of Heaven: Postwar Fiction
by Vietnamese &American Writers. Chữ "hòa giải" (reconcilation)
được nhắc đến nhiều lần trong cuốn này kể cả trong
bài Tựa của Wayne Karlin (người chịu trách nhiệm nặng nhất)
,
Trước khi nói chuyện "hòa giải",
nếu đã tự nhận là nhà văn, phải đủ trách nhiệm để
giải quyết những vấn đề như mở cổng tam quan đón quân
ngoại quốc vào chỉ để thực hiêän cái âm mưu chiếm nốt
Miền Nam cho chủ nghĩa cộng sản; dấm dúi mang vũ khí đào
hầm, đào đường như những tên đạo chích hạng bét để
tấn công người lương thiện mà bây giờ lại coi thường
độc giả (và lịch sử) đến nỗi tuyên bố ba hoa chích chòe
về nỗi lòng "mê đắm" và "người của chiến tranh"
như Lê Minh Khuê đã làm.
Thế thì tình yêu của những
người dân Miền Nam-và cả miền Bắc nữa- không bằng lòng
với chế độ cộng sản thì sao? Cái "chiến tranh" áp
đặt lên nhân dân hai miền Nam Bắc có nên tiểu thuyết hóa
nó như một thứ lãng- mạn- ky-ø tình- vương- mùi- thuốc-
súng, xuân -này- em- không -về, nếu -mai -không -nở -em -không
-biết- xuân- về -hay -chưa -vì -còn-bận- đào- hầm- trên-
đuờng -mòn -Hồ Chí Minh không? Căn cứ trên những tài liệu
của tờ Los Angeles Times và của cả chính người cộng sản
Vũ Thư Hiên, thì thứ tình-yêu-trong-khói-lửa ấy hóa ra chỉ
là một thứ tình yêu của những kẻ "xâm lược và bị xâm
lược" không hơn không kém. Những nhà văn như nhà văn Lê
Minh Khuê cho đến nay vẫn chưa có lời chính thức về sự
xâm lược này, cứ làm như dân Miền Nam "mời" những người
như Lê Minh Khuê vào để "giải phóng" họ! Khi nói về lòng
yêu say đắm (passionate love) của bà trong năm năm chung
vai satù cánh với những người lính Hà Nội (Hanoi men)
trên đường xâm nhập Miền Nam hẳn Lê Minh Khuê không bao
giờ nghĩ tới những người phụ nữ Miền Nam mất chôàng,
máát người yêu, mất tình yêu say đắm của họ (không
kém gì cái say đắm của bà) chỉ vì những người như
Lê Minh Khuê. Xa xôi hơn, trong khi Lê Minh Khuê còn sống, còn
cơ hôäi để LẠI viết sai lịch sử, bao nhiêu người đàn
bà khác ở cả hai miền Nam Báéc đã bỏ thân trên đường
mòn Hồ Chí Minh hay biển Ðông? Cho nên, sự "giải phóng Miền
Nam" và những tình cảm lãng mạn trên những ngọn đồi khói
lửa dọc đường mòn HCM thật ra chỉ là một thứ "huyền
thoại" của những kẻ bị lừa.
Dĩ nhiên người ta không thể đòi
hỏi quá nhiều ở những nhà văn như Lê Minh Khuê. Nhưng người
ta có quyền đòi hỏi ở những nhà văn Miền Nam chạy ra hải
ngoại để lánh nạn cộng sản như Võ Phiến, Nguyễn Mộng
Giác- nhất là khi những nhà văn này đang sống ở một nơi
có tự do hoàn toàn- sự thành thực là cái tính chất căn
bản đầu tiên làm nên một nhà văn. Các nhà văn này nghĩ
sao về những vấn đề như vụ đường mòn Hồ Chí Minh (qua
lời nhà văn Lê Minh Khuê thì họ là những "thánh tử đạo"
cho tình yêu, tình người đầy lãng mạn trong khói lửa để
giải phóng Miền Nam), như vụ trung tâm Joiner bấy lâu nay vẫn
vô tình "mời mọc" một chiêàu các nhà văn Miền Bắc, như
vụ các nhà văn Miền Nam không vô tình nhưng chỉ vì sợ "lỡ
chuyến tàu đêm" đã bỏ mặc sự thực và các nhà văn Miền
Nam còn ở lại đang còn bị cấm sinh hoạt...để trịnh trọng
đeo cái mão "hòa giải" ?
Chính vì sự thành thực ấy mà
những sự "hợp tác", hòa giải (dối trá) để xuất hiêän
những cuốn như cuốn "The Other Side of Heaven" là sự khánh kiệt
của tinh thần tôn trọng sự thực.
Nhưng đúng ra, "The Other Side of Heaven"
chỉ là kết quả của sự vận động trong nhiều năm, khởi
đi từ nhà văn Nhật Tiến. Nhật Tiến là nhà văn miền Nam
đầu tiên ra mặt cổ võ cho sự "hòa hợp hòa giải" một
chiều của cộng sản:
-...Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng
trong tương lai, tình hình sẽ khác đi. Bằng lương tri và tình
tự dân tộc, những người cầm bút cả trong lẫn ngoài nước
sẽ phá vỡ được mọi hàng rào, mọi định kiến, mọi trở
lực để cùng nhau tìm về cội nguồn dân tộc, biết đặt
quyền lợi của dân tộc cũng như quyền lợi tinh thần của
thế hệ tiếp nối lên trên mọi vướng mắc của quá khứ
cũng như của hận thuø...( Trả lời phỏng vấn,Văn Học
, số 100, 8.1994)
Chỉ non nửa năm sau , trong một
bức thư trả lời Nhật Tiến, Nguyễn Chí Thiện đã phản
bác những lý luận (nếu tạm coi là lý luận) xác địch chủ
ý "hòa hợp hòa giải" hết sức ngây thơ này như sau:
-...Khi người trong nước nghe
một số người Việt ở ngoài nước kêu gọi hòa hợp hòa
giải, dùng chính khẩu hiệu cộng sản đã dùng mòn trơ ra
, thời ai cũng hiểu là hòa hợp hòa giải với nhà nước
cộng sản, chứ không ai hiểu lẩn thẩn là hòa hợp hòa giải
giữa Bắc 75, Bắc 54, giữa người đi từ Vũng Tàu, đi từ
Hải Phòng, hòa hợp với Hoàng Minh Chính, Dương Thu Hương,
Nguyễn Hộ, Nguyễn Chí Thiện!...(Dân Chúng, 30.11.1995).
Nhưng cái cảm tưởng ngây thơ nếu
người ta có về Nhật Tiến sẽ không tồn tại lâu hơn khi
đọc kỹ lại phần ông ta ngay trước đó định loại thế
nào là văn học Việt Nam hải ngoại và trong nước :
-...Tất cả bốn tác giả kể
trên, tuy có tác phẩm ấn hành lần đầu tiên ở hải ngoại,
nhưng họ hiện đang sống trong nước....; do đó tác phẩm
nháát thiết phải được xếp loại là thuôäc dòng văn chương
hải ngoại [...] Rồi gần đây, tại TP HCM, nhà xuất bản
Trẻ vừa cho phát hành tập thơ "Loài Chim Di Trú" của Thu Lâm,
một tác giả hiện đang sống ở Canada. Mặc dù nội dung tập
thơ không đề cập gì tới lĩnh vực chính trị, chỉ mang
nặng tình tự dân tộc,...nó phải được xếp loại trong
dòng văn học ở trong nước.
Như thế, yếu tố địa lý (tác
giả ở trong nước hay ngoài nước) đã trở nên không đứng
vững một khi đem dùng làm tiêu chuâån để quy định một
tác phẩm thuộc dòng văn chương nào...(báo đã dẫn).
Nhật Tiến vô tình để lộ ra một
điều vốn là thâm ý của nhà câàm quyền cộng sản: những
tác phẩm xuất bản ở Viêät Nam cho tới nay của những tác
giả ngoài Việt Nam hoặc là "không đề cập gì tới lĩnh
vực chính trị" hoặc là phải có lợi cho họ. Vì cũng
cho tới nay, đừng nói tới chuyện in ấn trong nước, đã
có bao nhiêu tác phẩm của những nhà văn Miền Nam (hãy cứ
nói tới nhà văn Miền Nam-mục tiêu bị trù dập - trước
đã) được cho đọc công khai chứ đừng nói phổ biến ở
Việt Nam?
Sau nữa, quan trọng hơn, người
đọc bình thường không thể biết nhưng môät nhà văn Miền
Nam như Nhật Tiến chắc chắn phải biết chính cộng sản
đã dùng cái võ "yếu tố địa ly'" này để đào một
đường mòn Hồ Chí Minh khác vào văn học Miền Nam cách đây
mấy chục năm cùng lúc với con đường Hồ Chí Minh đang được
đào lén lút ở Trường Sơn. Ðó là trường hợp của những
người cộng sản hay đảng viên cộng sản đã tập kết ra
Bắc hoặc ở ngoài Bắc bỗng biến thành thành phần chủ
yếu của "văn học giải phóng" Miền Nam như Trần Bạch Ðằng
thành Hưởng Triều, Lư u Hữu Phước thành Huỳnh Minh Siêng
...Từ một nước có thể chế hẳn hòi, có chính phủ đàng
hoàng, có tự do thực sự, Việt Nam Cộng Hòa bỗng trở thành
một "vùng bị tạm chiếm." (chữ của cộng sản và các ông
trí thức khuynh tả lập lại như con vẹt. Trong các ông này,
nếu như tôi nhớ không lầm, có cả nhà phê bình Ðặng Tiến
ở bên Pháp. Gớm, sao mà cái chữ "Tiến" này nó lại ...gian
truân đến thế không biết! ) Sau này các nhà văn nhà thơ
như Tô Thùy Yên, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyêàn, Mai Thảo, Vũ Khắc
Khoan...và hầu như toàn thể những người viết cùng với
họ ở "vùng bị tạm chiếm" ấy đều bị gạt ra khỏi những
cuốn sách viết về "văn học giải phóng" do các người cộng
sản viết sau 1975 dù họ mới chính là những người đại
diện cho nền văn học ấy. Ngẫu nhiên hay cố ý mà Nhật
Tiến áp dụng lại cái võ này của cộng sản? Câu trả lời
là việc Nhật Tiến nay đi đi về về để "đánh đu với
tinh", với hồ ly ở Việt Nam, làm một thứ hàng thần hạng
bét. Sáu năm sau khi Nhật Tiến tuyên bố những câu trên, những
người cầm bút có lương tri và tình tự dân tộc như
nhà văn Miền Bắc Dương Thu Hương ra khỏi Hội Nhà Văn, dệt
vải kiếm ăn, viết bài chống lại; nhà thơ miền Nam (Thượng
Tọa) Tuệ Sỹ chính thức kết án nhà cầm quyền cộng sản
đã biến Việt Nam thành một bãi rác khổng lồ. Nêáu người
ta nhìn kỹ, trong bãi rác khổng lồ ấy ắt có nhà văn Nhật
Tiến chạy từ hải ngoại về, ngồi chồm chỗm ở một góc.
II. KHI "YÊU NHAU NÓI DỐI CHO NHAU"
Mới đây, lại có tin Trung Tâm Joiner
(nơi đã bảo trợ cuốn The Other Side of Heaven) đã rục
rịch mời hai nhà văn Việt Nam là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn
Huệ Chi vào một ban "Nghiên Cứu Người Di Dân Việt Nam hải
ngoại"! Các cộng đồng Việt Nam đang hết sức chống lại
dự tính này: không có gì khôi hài hơn là thuê những tên
sát nhân để nghiên cứu xem trước khi chết, nạn nhân đã
dẫy dụa, đau đớn như thế nào! Không hiểu sự việc này
rồi đi đến đâu nhưng tôi có cảm tưởng rằng ai nghiên
cứu về "nhà văn" Việt Nam Hải ngoại chắc chắn sẽ không
thoát khỏi cái âán tượng này: có những "nhà văn" sa*u7861?n
sàng "đánh" anh em bằng những thứ "văn phong" đê hạ, bằng
những thủ đoạn bẩn thỉu nhất khi không được khen hay
còn dở trò rỉ tai, chuyền độc nhưng không bao giờ dám đương
đầu với những vấn đề sống chết của đa số như vấn
đề Trung tâm Joiner bây giờ, thậm chí còn hợp tác (The
Other Side of Haeven) và ỉm luôn cho nhau. Nhà văn Lê Minh Khuê
'nói dối" vì bị che mắt đàng trước, vì còn cái bóng của
nhà nước cộng sản như cái bóng của thần chết chờn vờn
sau lưng. Nhưng tệ hơn Lê Minh Khuê nữa là những nhà văn
miền Nam cam tâm nói dối để bảo vệ cái danh hão của mình
và đồng bọn.
Thí dụ điển hình cho sự "yêu
nhau nói dối ối à cho nhau" đó là trường hợp nhà văn Lê
Tất Ðiều (còn có bút hiệu Kiều Phong, Cao Tần). Lê Tất
Ðiều hoàn toàn im lặng về những vấn đề này dù lúc nào
ông cũng sẵn sàng "cầu viện" đến những người lính miền
Nam, người tù miền Nam (HO). Trường hợp Lê Tất Ðiều là
một trường hợp rất đặc biệt. Người đọc sẽ phải
cắt nghĩa ra sao về sự mâu thuẫn giữa những đoạn mà ông
viết rất chí thành về chính nghĩa của miền Nam, về người
lính Miền Nam với sự im lặng khác thường trước những
vâán đề vô cùng quan trọng nêu trên? Hay thứ văn phong tấn
công cá nhân vô cùng đê tiện trong một loạt bài mới đây
chỉ để nhắm bênh vực Võ Phiến về những sai lầm trong
sáu cuốn sách Văn học Miền Nam, về việc ông đòi bỏ quốc
ca, về việc ông và Võ Phiến là hội viên của Văn Bút Việt
Nam trước 75 mà sau 75 còn khen ngợi, về hùa với một người
đang úp úp mở mở tự nhận là con trai của tướng côäng
sản Nguyễn Chí Thanh? Nhất là khi tin tức này được Hà Thượng
Nhân, chủ nhiệm tờ Tiền Tuyến, và đại tá Nguyễn Tử
Ðóa công bố qua sự xác nhận của chính ông bố vợ của
Nguyễn Hữu Nghĩa. Quan trọng hơn, cái loa Kiều Phong vẫn chưa
giải thích được sự xuất hiện của Võ Phiến trong The
Other Side of Heaven, một sự "hòa hợp" nối dài từ Nhật
Tiến.
Ðể cắt nghĩa cho những sự mâu
thuẫn rất khó hiểu gần như là phi lý ấy, người đọc
cần xem lại toàn bộ tác phâåm của ông, nhất là những
tác phẩm viết sau 1975. Một trong những tác phẩm để lộ
con người thật của tác giả là cuốn Thơ Cao Tần.
Cuốn này được xem như tiêu biểu cho cái "tinh thần tỵ nạn"
mà nhà văn Võ Phiến hết lời ca ngợi trong lời Tựa "...Và
trên chừng âáy nét tâm trạng của chính mình là một khí
phách hào hùng, dù là cái hào hùng của người lâm vào mạt
lộ..." Tiếc thay, Võ Phiến chỉ đúng có một nửa. Bên
cạnh cái khí phách hào hùng âáy là những câu thơ tương
phản rõ rệt :
...Em điếm rẻ tiền hành nghề
Gò Vấp
Anh tìm vui hoang em hát cải lương
Oâm nhau dửng dưng rời nhau hấp
tấp
Lòng vẫn chung mang nỗi sợ sa
trường...(Chiều Bát Phố)
Khi ấy, chưa mất nước, lại là
trung úy -dù là trung úy ...lính kiêång ngồi ở tòa soạn Tiền
Tuyến- mà chàng đã sợ sa trường rồi à!? Thế thì
cái khí phách hào hùng của người chưa mạt lộ
chàng để ở đâu? Chắc cũng ở... Gò Vấp?! Tinh thâàn khiếp
nhược âáy được bâày hàng một cách hết sức thê thảm
trong bài "Ta làm gì cho hết nửa đời sau?" sau khi chàng đã
...đào ngũ, sau khi bỏ của chạy lấy người trước anh em,
với những câu bất hủ:
"Chuyện binh lửa anh em chừng
cũng ớn. Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai...Năm tráng sĩ
bị mười chai quất gục. Ðời tha hương coi bộ vẫn êm đêàm....Kẻ
thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới: "Ta làm gì cho hết nửa
đời sau?..."
Trước 75, chàng Lê Tất Ðiều vừa
...ôm em điếm vừa run câàm cập (không phải vì sợ
phu nhân hay lính kiểm tục bắt gặp) mà vì sợ... sa trường.
Sau 75, không có "ánh mắt hỏa châu", không có AK 47, chàng vẫn
"ớn chuyện binh lửa", vẫn "không biết làm gì cho hết nửa
đời sau" ! Và để cho chắc ăn, chàng bèn "suy bụng ta ra bụng
...mình" là từ em điếm cho tới các anh em lính
cũ khác cũng sợ sa trường, ớn binh lửa như chàng!
Càng không lạ gì khi Lê Tất Ðiều
cho đến nay vẫn im lặng trước thái độ hòa hợp hòa giải
của Nhật Tiến hay sự cộng tác -vô tình hay cố ý?-với
Hội Nhà Văn (gồm toàn đảng viên cộng sản) của Võ Phiến:
"...Ông sẽ mở ra nghìn lò cải
tạo
Lùa cả nước vào học tập
yêu thương"
Và:
"Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền
kiêáp..." (Mai Mốt Anh Về, sđd)
Ơ hay, "cả nuớc" chúng tôi
có hận thù gì ai mà phải vào học tập yêu thương?
Ðâu có thua gì lập luận cò môài "quên hận thù" mà Nhật
Tiến (và sau này của cả nhà văn Mai Kim Ngọc trong ban chủ
biên tờ Văn Học) đã bị Nguyễn Chí Thiện đả cho mấy
chùy trí mạng trong bài trả lời đã dẫn. Nguyễn Chí Thiện
là người viêát miền Bắc. Hoàng Hải Thủy, một người
viết miền Nam, không có may mắn "đi trước" như Cao Tần,
bị cộng sản giam nhiều năm tù , cũng tuyên bố "không bao
giờ cuộc chiêán cũ lại có thể coi là tiền kiếp..." trong
một bài đăng trên tờ Người Việt, CA. Như thế nghĩa là
Bắc Nam đã rất đoàn kết, đã cùng không nhá được cái
món tiết canh "hoà hợp, quên hận thù" còn tanh máùu anh em
này.
Ðọc từng bài hay từng phần của
tác giả Lê Tất Ðiều- kiêm Cao Tần- kiêm Kiều Phong, người
ta không thể nhìn thâáy những mâu thuẫn này. Nhưng chỉ cần
đọc toàn bộ hay đọc kỹ một tác phẩm, người ta sẽ nhận
ra ngay: cứ một lời "tráng sĩ vung kiê'm hề, một đi không
trở lại" thì lại có dăm bẩy câu "lòng vẫn mang nỗi
sợ sa trường" (Thơ Cao Tần). Cứ một bài ca ngợi
người lính Việt Nam Cộng Hòa thì ngay bên cạnh có một bài
dìm ... Phan Lạc Tiếp (và cả bà PLT) đến nơi đến chốn
(Thư Về Bloomington, Illinois). May là trung tá Hải Quân
Phan Lacï Tiếp ..biết lội chứ là Ðịa Phương quân hay bộ
binh thì bị dìm kiểu đó ắt phải chết đuối từ khuya.
Cứ một bài khóc mếu tả tình tả cảnh khích động anh em
HO về sự hy sinh của họ, lại có một bài sỉ nhục công
khai cả một binh chủng:
-...một câu thơ...vô nghĩa như
thế, phải là một thi sĩ gốc sĩ quan Dù mới có can đảm
viết xuống giâáy ...(Kiều Phong, trích Saigòn Nhỏ)
Người đọc không khỏi sửng sôát
trước sự xúc phạm tới binh chủng Nhẩy Dù một cách rất
nghiễm nhiên trên. Sự xúc phạm ấy có tính toán vì Kiều
Phong còn phân biệt rõ "...gốc sĩ quan Duø". Các gốc
sĩ quan Dù -từ chuâån úy tới đại tươnùg - được Kiêàu
Phong chỉ đích danh nghĩ gì về lời nhục mạ này, về tờ
báo đã cho đăng lời nhục mạ này? Binh chủng Nhẩy Dù sở
dĩ nổi tiếng là môät binh chủng thiện chiến chính vì sự
can đảm của họ. Nay Kiều Phong đưa sự can đảm ấy ra,
gán ghép, vu cáo nó vào một chuyêän hoàn toàn không dính dáng
gì đến binh chủng Nhẩy Dù là để biến nó thành môät sự
lố bịch. Tôi khỏi cần "bảo hoàng hơn vua" vì ai cũng dư
biết rằng trong khi Kiều Phong múa gậy vườn... Gò Vấp thì
binh sĩ và sĩ quan gốc Dù đang đổ máu ở sa trươnøg, cái
sa trường mà bạn ta vẫn sợ chêát khiếp dù
ngay cả trong khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên ở xóm
Bình Khang, cách nơi binh lửa ít nhất vài chục dặm- đường-
chim- bay nếu nói theo kiểu không quân và mấy chục hải lý
nếu nói theo kiểu ...ca sĩ gốc Hải quân Anh Khoa (người rất
nổi tiếng với bài Hoa Biển.) Phải chăng mấy chục năm nay,
được Võ Phiến và vài nhà văn khác dung túng, được tự
tung tự tác nhờ thể chế tự do ở Miền Nam, Kiều Phong tưởng
bở rằng chàng có thể viết lách vô cùng láo lếu, hỗn xược,
nghĩa là ngang nhiên bước qua những khu vực bát khả xâm phạm
mà binh sĩ (và sĩ quan Dù ) không dám ...nổ súng chăng?
Này bạn ta Kiều Phong, ai cũng có quyền nói tới hai chữ can
đảm chứ bạn đã từng có thành tích chết nhát bị bắt
tận tay day tận mặt ở Gò Vấp thì không nên nhắc tới
hai chữ này kẻo mâáy cuốn tự điển tiếng Việt chúng đi
trình cẩm về cái tội bạo hành chữ nghĩa. Bạn ta cũng không
nên đụng vào binh chủng Nhẩy Dù làm gì mà có ngày ra
ngõ gặp ...Nhẩy Dù là phiền cho bạn lắm đấy. Nói theo
kiểu thi sĩ gốc sĩ quan Dù Mậu Binh (Hà Huyền Chi) thì:
Kiê`u Phong chẳng lượng sức
mình
Khi không gãi ngứa Mậu Binh cũng
liều
Cao Tần sức vóc bi nhiêu
Cộng thêm võ bẩn Tốt Ðiều
thử coi
(Chưa học làm người)
Trò ngu xuẩn vôán lười lại
bẩn
Nói, không làm mà vẫn tranh công
Quốc Ca đòi bỏ không xong
Cao Tần bể mặt, Kiều Phong
mạt thời
Vẫn lẻo mép, dựa hơi, xách
đôäng
Lính gì ngươi, chống cộng gì
ngươi
Mượn dăm khẩu hiệu lòe người
Cái tâm biển lận, cái đời
nhỏ nhen
(Cưỡng Lý Ðoạt Từ)
Cứ một bài viết về cái xấu
trên Chân Dung Bác Hồ (ký Kiều Phong) thì lập tức có
ngay cả chục bài khác lôi đời riêng nhiều tác giả khác
lên tấn công bằng thứ chữ nghĩa rùng rợn mà ngay cả với
tội đồ dân tộc như Bác Hồ, chàng cũng không dùng đến.
Trong khi ấy, quần hùng quần tà tuy không nói ra nhưng đều
biết rõ tại sao mười máy năm nay, tuy San Diego không có lụt
mà chàng đã phải trốn biệt, phải "lên núi." Ấy là vì
chưa hai năm mươi, chưa có bia mộ mà chàng đã bị một cái
bia miệng khổng lồ như lá bùa Lỗ Ban yểm ngay trên trán.
Nếu muốn cho chàng "cất đầu chẳng lên" thì không cần phải
là xạ thủ đại liên, nhắm mắt mà bắn cũng trúng cái bia
miệng chàng đang đeo trên người cho tới ngày chàng đem nó
xuống tuyêàn đài, chôn dưới bia mộ. Khác với thời kỳ
trước 1975 khi Kiều Phong còn có đồng đảng dung dưỡng cho
những trò nhảm nhí, những người viết mà Kiều Phong lỡ
dại động vào đều trả đũa đích đáng. Mậu Binh tung ra
33 bài thơ:
Lấy nước ...thải mà soi dung
mạo
Tội cho ngươi nhà giáo, nhà
banh
Hậu phương múa bút thâäp thành
Thấy nguy đào ngũ chuồn nhanh
gián ngày
Viết dơ dáy vào tay cự phách
Chửi lèm bèm lãng nhách vô song
Nhổ rồi lại liếm như không
Vu oan, tá họa Kiều Phong hơn
người.
(Tốt Ðiều Mộ Khúc)
Còn một số tác giả khác, những
người được Kiều Phong có "hảo tâm" chú ý tới bằng những
bài viết về con cái, về y phục, về nhan sắc, thậm chí
cả về những người bạn của họ, người ta có thể "lâ'y
răng đổi răng; lấy mắt đổi mắt" bằng cách lôi đời
riêng của quý bạn ra. Kiều Phong nghĩ họ dọa chăng? Ðể
dẫn chứng, xin đưa một thí dụ điển hình trích trong tập
bản thảo của Thế Phong, tựa đề "Thư Viết ở Sàigon,"
1999. Nghe nói tập bản thảo này vừa được xuất bản tại
Hoa Kỳ thì không hiểu trong ấn bản chính thức tác giả có
giữ đoạn mà tôi sẽ trích ra không, nhưng đây là nguyên
văn (1):
...Có một buổi, UUU, tôi, Hoàng
cùng đi ăn cơm tây bụi (ở thành phố nay mở nhiều tiêäm
cơm tây rẻ tiền lại ngon). Hoàng hỏi:
-Mày làm thế nào lại có con
gái với TTT? Vợ mày không biết sao?
UUU đành phải kể: Quen với TTT
song hành với việc cưới NNN chính thức. Chính NNN đã lui
tới thăm nom...(trang 29, bản thảo-Trong bản thảo có viết
rõ tên các nhân vâ.t. Trong trường hợp đặc biệt này, tôi
xin mạn phép-và cáo lỗi- tác giả để được không dùng
tên thật của họ.)
Nhưng không ai đã làm như Kiều
Phong. Việc TTT-bạn thiết của Kiều Phong ở tòa soạn Sóng
Thần - có con với ai, trong trường hợp éo le nào ...không
phải là chuyện bất cứ nhà văn nào cần lưu tâm tới khi
phải tranh luận về nhưnõg vấn đề văn học. Nhưng nay tôi
viết ra cốt để Kiều Phong thấy chớ có bao giờ bới móc
đời riêng của bạn hữu người khác vì mai sau nếu có
bao gìơ, vô phúc mà ở lần khác, với người khác...thì
bạn hữu của Kiều Phong có râát nhiều hy vọng bị chết
oan vì người ta có thể dùng như môät thứ tài liệu để
hỏi lại Kiều Phong rằng: "bạn của tôi như thế còn bạn
(TTT) của bạn thì sao?!" Những chuyện "ở trong chăn mới biết
chăn có ...người " này không phải cứ tự xưng là đại văn
hào, đại thi bá, đại chủ nhiêäm mà bá tánh không dám khều
ra đâu. Kiều Phong còn làm một việc thập phần hèn nhát
là lôi người hôn phối cũ của bạn tôi lên báo trong khi
người phụ nữ này không phải trong văn giới, không có cách
nào tự bảo vệ họ được. Ðây không còn là cái thời kỳ
"vàng son" của quý bạn để quý bạn lại dở trò phe đảng
mà tàn hại người khác vì sẽ có những người cầm bút,
những cựu quân nhân, những tờ báo ...đã rất sẵn sàng
dậy quý bạn vài bài học về việc "yêu già, kính...phụ
nữ":
Ðem cả vợ làm khiên đỡ đạn
Chơi hoa rồi rao bán cả cành
Khoe chi cái võ lưu manh
Ngậm chi chữ máu hôi tanh phun
người
(Mậu Binh, Một Nòi Tiểu Nhân)
Xưa nay, để tránh chuyện "dây với
hủi", người ta thường im lặng. Nhưng im lặng lâu quá, hủi
sẽ lan tràn đầy trong anh em (mượn lời Nguyễn Mạnh Côn.)
Nhất là thứ hủi (phong) kinh niên. Vậy chỉ có mỗi một
cách: lôi hủi ra xát xà phòng cẩn thâän.
Cho nên, càng lúc càng có nhiều
dấu hiệu cho thấy rằng sự mong mỏi, kỳ vọng vào một
số nhà văn (Miền Nam) tăm tiếng nào đó là vô ích, cả về
văn chương lẫn thái độ chính trị. Sở dĩ có những mâu
thuẫn như đã xẩy ra trong trường hợp Lê Tất Ðiều vì
họ có tăm tiếng trong một thời gian chưa bị thử thách,
vì họ chưa thực sự nếm mùi binh lửa. Ra tới hải ngoại,
lần đầu tiên phải đối phó với một hoàn cảnh địa lý
rộng lớn nơi những triều đình như ở Saigòn không còn tác
dụng nữa, phải sáng tác đúng với tinh thần sáng tác mà
độc giả muốn thâáy ở các nhà văn nổi tiếng ngoại quốc...
một số nhà văn này đành phải sống gủi ăn nhờ vào cái
hào quang sót lại trước 1975. Một số nhà văn khác vì tình
riêng (như Võ Phiến với Nguyễn Mộng Giác, người có sách
xuất bản ở Việt Nam hay như Lê Tất Ðiều với Nhật Tiến,
người kêu gọi "hòa giải" vô điều kiện vói chính phủ
cộng sản) và không đủ đởm lược để tham dự vào những
chuyện chung đã nhắm mắt làm ngơ trước sự hợp tác với
cộng sản nhân danh dân tộc và văn chương hay hoạt động
bằng cửa hậu, bằng những bài viết nhắm ca ngợi thời
vàng son cũ hay "rỉ tai", chuyền độc để hại một tác giả
khác. Kiếp này mà không học được bài học nào thì nói
tới kiếp trước làm chi?! Ðể kiếp sau lại vất vả ...tháo
chạy như kiếp này rồi ngồi xuông mà thơ với thâån nữa
à?! Nhưng có lẽ Cao Tần hiểu mình hơn ai hết. Khi ông viết
:"Ta làm gì cho hết nửa đời sau" quả là đã có tài tiên
tri cho cái nửa đời sau rất là vô tích sự của ông.
III- CHIẾU CẠP ÐIỀU hay CHIẾU
RÁCH?
Ở đây sầu đã tan tành
Người đi chưa đủ về quanh
chiếu ngồi
(thơ Viên Linh)
Tiếc là những người chúng ta chờ
đợi để về quanh chiếu ngồi thì đã qua đời trong
tù cộng sản (Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu
Tường...) hay không thể ra khỏi nước. Chỉ còn lại những
kẻ "chiến thắng" chễm chệ đoiâá mặt với người ngoại
quốc và những người "bại trận" (Võ Phiến, Nguyễn Mộng
Giác...) tình nguyện khép nép ngồi ghé vào một góc chiếu
do những tổ chức như trung tâm Joiner trải ra với cái tên
"The Other Side of Heaven." Ðứng chầu rìa bên cạnh là người-không-biết-làm-gì-cho-hết-nửa-đời-sau
Lê Tất Ðiều với dăm bẩy lọ mực đen thui, sẵn sàng vẩy
lung tung vào bất cứ nhà văn nào đặt dấu hỏi về cái chiếu
rách này. Với người Việt Nam, có lẽ nên đổi tên lại
cái chiếu này là "Bản Mặt Bên Kia của Ðịa Ngục" thì đúng
hơn: môät "địa ngục" nơi sự thực bị đày xuống sau khi
đã bị ám sát ở đường mòn Hồ Chí Minh./.
Nguyễn tà cúc
Chú thích:
1- Khi tôi trích đoạn viết về
đời riêng bạn hữu của Lê tất Ðiều, tôi không tán thành
hay cổ võ cho những lối viết đó. Sở dĩ tôi nhắc đến
là để cho Lê Tất Ðiều biết rằng những loại viêát không
dính dáng gi đến văn chương của bạn ta như lôi con caiù,
đời riêng người khác lên báo rất dễ bị quật lại bằng
nhũng đòn sát thủ. Ở trừơng hợp (Kiều Phong) Lê Tất Ðiều,
bạn ta đã bị trúng những đòn sát thủ như bài "Bài Học
Làm Người Dành Cho Lê Tâát Ðiều" (Ðặng Văn Nhâm) nói tới
việc Lê Tất Ðiều đã làm một việc ám muôäi khiến phải
"lên núi" từ hơn mười năm nay , hay 33 bài thơ (Hà Huyền
Chi), có bài nói tới hiện tượng "cùng đắp chiếu văn chương"
để xỉ mạ cả nước và những "giai thoại" có liên quan
đến những người bạn thiết của Lê Tất Ðiều đang toan
tính "cùng đắp chiếu văn chương" với người cộng sản
Việt Nam. |