NGƯỜI Ở LẠI
Một sông Gianh mới chia lìa hai bờ
Nam Bắc. Người ở lại Phan Khôi, Trần Tiêu, Ðoàn Phú Tứ,
Ðào Duy Anh, Trần Thanh Mại, Hữu Loan, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn
Mạnh Tường, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyên Hồng,
Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính... tưởng vẫn được làm
thơ viết văn. Cho đến khi Trăm Hoa, Giai Phẩm, Nhân Văn và
Văn bắt đầu có những bài của Nguyễn Hữu Ðang, Phùng Quán
Trần Dần, Phan Khôi, Lê Ðạt đặt dấu hỏi về sự lãnh
đạo của đảng cộng sản vào cả văn học nghệ thuật thì
không còn tương nhượng giữa nhà cầm quyền và nhà cầm
bút. Sự tương nhượng lúc đầu chỉ là thời gian chuyển
tiếp. Khi tình trạng chính trị ổn định, khi miền Bắc thanh
bình để sửa soạn một cuộc can qua mới, khi mục tiêu đã
hoạch rõ, khi chương trình dài hạn đã thảo ra, văn nghệ
sĩ miền Bắc không có lý do gì được đứng ngoài bộ máy
chiến tranh, đi lạc khỏi chỗ mà người nắm quyền đã khuyên
sẵn cho họ trong ván cờ sát phạt. Kết quả là những hoạn
nạn rồi ra sẽ tàn phá văn học cũng như sự nghèo đói,
túng thiếu về kinh tế đã tàn phá xã hội miền Bắc. Miền
Bắc như một anh khổng lồ, dồn hết nguồn sống vào hai
tay để đánh vật.
NGƯỜI RA ÐI
Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Mặc
Ðỗ, Ðỗ Ðức Thu, Lê Văn Trương, Vi Huyền Ðắc, Tam Lang
Vũ Ðình Chí, Nhất Linh, Vũ Bằng... góp phần xây dựng một
nền văn học mới với các nhà văn trong Nam như Hồ Hữu Tường,
Ðông Hồ, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Sơn
Nam...Ðây là một trong những thời cực thịnh của văn chương
Việt Nam, cống hiến lớp trái đầu mùa tốt tươi của lớp
mới, trẻ tưổi hơn, hoặc sinh trưởng ngay địa phương hoặc
di cư từ Bắc vào: Bùi Giáng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Thanh Nam,
Lê Xuyên, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Dương
Nghiễm Mậu, Viên Linh, Lê Tất Ðiều, Nguyễn Ðức Sơn, Nguyễn
Ðình Toàn...
Ở miền Nam, một nửa nước còn
được chọn tự do, thì văn chương không bị cầm tù, không
bị chỉ đạo.
Anh không phải viết về chiến
tranh, về những hình nhân đang xuất hiện trên trang nhất
nhật trình nếu anh không muốn. Anh có quyền tự cùm chân
trong chiếc vườn địa đàng của riêng mình hay đi lang thang
trong cõi phù sinh. Có khi anh viết những câu tối mù mù như
chiếc đèn dầu con con anh thắp mỗi đêm để đọc sách.
Viết xong anh ngâm ư ử, cười ha hả. Thập loại chúng sinh
có phải nghe lây cũng không hề gì. Chẳng phải họ vẫn cho
các anh là một đám cuồng "mơ theo trăng" và "thơ thẩn cùng
mây" sao? Ngòi bút là vũ khí ư? Các anh có giết được ai
với thứ vũ khí ấy bao giờ chưa? Ðám lê dân chỉ biết
đến anh qua Thơ Say hay Mê Hồn Ca. Họ tin- mà có phần đúng-
mỗi anh còn luẩn quẩn trong thị trấn của riêng anh nơi đôi
mắt huyền của mỹ nhân vẫn còn long lanh, nơi cặp môi son
ngậm chặt đươcï câu thần chú mở đuơcï cửa linh hồn
các anh. Có điều linh hồn các anh không phải lúc nào cũng
là anh hay ở với anh. Có khi nó là ma hay là Trời
Gió mời lên phải may
Trăng dìu lên phải đầy
Trà đang lên phải là khói
Thơ ngâm lên phải là mây
Ðốt đèn lên phải ma hiện
Trời vào khuya người phải nằm
say
Ma là Người...kiếp khác
Người là Trời...đêm nay
(Vũ Hoàng Chương, 1973)
Có khi nó ở hẳn chỗ khác, trong
tiếng súng ầm ì, các anh vẫn loay hoay, tý toáy với ngòi
bút. Anh bàn chuyện thế sự, chuyện nhân tình. Văn chương
các anh có lúc dịu dàng, có lúc cáu kỉnh. Ðám lê dân đọc
các anh có lúc cũng dịu dàng, có lúc cũng cáu kỉnh. Xem chừng
anh viết toàn những câu buồn rười rượi:
Ở đây sầu đã tan tành
Người đi chưa đủ về quanh
chiếu ngồi
(Viên Linh)
Thế thì cái chí lớn, chí cả
đâu rồi? Hồ Trường lại không biết rót về đâu chăng?
Chính anh cũng tự thú: Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết thôi.
Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa. Giá viết cũng
không người đọc...
Vũ Hoàng Chương trả lời thế
khi Nguyễn Mạnh Côn phỏng vấn năm 1970. Ðó là năm 1970. Những
văn nghệ sĩ miền Nam tự do có quyền chọn viết hay không,
sáng tác hay ngưng, trình diễn hay thôi. Không ai đặt vấn
đề. Mà nếu có, sẽ không phải là nhà cầm quyền. Khi chính
phủ Nguyễn Văn Thiệu (đệ nhị cộng hòa) muốn cắt ngân
khoản tài trợ cho hội Bút Việt (tức là Văn Bút Việt Nam)
lấy lý do vài nhà văn trong hội đã chỉ trích chính quyền;
linh mục Thanh Lãng, chủ tịch hội Văn Bút, lập tức có thái
độ:
-...từ 18 năm nay, tức là từ
ngày có Văn Bút, từ đầu năm 1957, hàng năm ngân sách quốc
gia vẫn đài thọ cho Văn Bút một ngân khoản để sinh hoạt
nội bộ và để đi dự hội nghị quốc tế. Ngân khoản đó
đã từng được đưa ra thảo luận tại quốc hội...Theo quan
niệm đại học, ngân sách quốc gia phải đài thọ Văn Hóa
cũng như đài thọ cho Y Tế...
(đăng ở Tạp Chí Nhà Văn, Saigon,
số tháng 2.1975, trang 118- Trích lại từ Văn Học Miền Nam
Tổng Quan, Võ Phiến, Hoa Kỳ, trang 41).
Nghĩa là nhà cầm quyền có bổn
phận phải nuôi dưỡng và khuyến khích sự sáng tác mà đại
diện là hội nhà văn Văn Bút. Ngoài ra không thể chỉ định
đề tài cũng như kiểm duyệt nội dung sự sáng tác. Ở một
nước đang có chiến tranh, ông Bùi Giáng vẫn ngồi ở hậu
phương làm những câu thơ cực kỳ bí hiểm:" Hãy mang tôi
tới bất ngờ. Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên" (Cầu
Nguyện Ca). Oâng Thanh Tâm Tuyền hậm hực gọi tên mình: "tôi
hét tên tôi cho nguôi giận..." Oâng lính trận Nguyễn Bắc
Sơn công khai trình bày cảm tưởng:
...Ði hành quân rượu đế vẫn
mang theo
Mang trong đầu những ý tưởng
trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời
ách nuớc
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi
bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến
đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một
trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
(Chiến Tranh Việt Nam vàTôi)
Toàn kiểu ăn nói của những người
"ra vẻ" đứng ngoài cuộc chiến. Cái không khí sôi sùng sục
đòi Bắc Tiến, những lời kêu gọi tha thiết kiểu "Anh đi
chiến dịch xa vời. Lòng súng nhân đạo cứu người lầm
than..." tự nhiên chìm hẳn trong bao suy nghĩ, thắc mắc khác
về thân phận con người, về "cái tôi" tách rời khỏi chiến
tranh. Trong khi miền Nam nhộn nhịp nhốn nháo với sự có mặt
của nhiều người viết, tràn ngập với tác phẩm đủ mọi
loại thì văn học miền Bắc yên lặng, âm thầm như những
đoàn quân mang dép Bình Trị Thiên bí mật vượt Trường Sơn
xâm nhập vào miền Nam. Ngoài những người cầm bút tự động
đổi máu văn nghệ xanh thành chính tri đỏ, số còn lại hoặc
bị tống vào tù khổ sai, hoặc bị đe dọa đầy ải đến
nỗi ngưng sáng tác như Phan Khôi đã dẫn: "...Còn Thế Lữ,
có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia.
Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh chỉnh lại được
tâm hồn, cảm thông được với quần chúng quần lao, bấy
giờ anh sẽ làm" (Phê Bình Lãnh Ðạo Văn Nghệ, 1956)
Vụ án Giai Phẩm, Nhân Văn, Văn
gây ra bởi sự chống cự của văn nghệ sĩ miền Bắc (1956-1958)
kết thúc bởi sự im lặng hoàn toàn của họ. Ða số bị
đem tới "học tập lao động" ở khu Việt Bắc âm u, "trước
là trung tâm cách mạng, nay lại trở lại nơi giam cầm chính
trị phạm" (Trăm Hoa Ðua nở Trên Ðất Bắc, Mặt Trận Bảo
Vệ Tự Do Văn Hóa xuất bản, Saigòn, 1959)
Những kẻ sĩ miền Bắc nếu không
tự tử suýt chết (Trần Dần) thì cũng lui về ẩn náu, hấp
hối trong hang hốc của vườn địa đàng đã bị thiêu rụi.
(Văn Cao). Bởi thế, khí thế dũng mãnh và ảnh hưởng của
các nhà văn tiền chiến thời kháng chiến chống Pháp, điển
hình là Nhượng Tống, Phan Khôi hay nhóm Tự Lực Văn Ðoàn
thoắt cái bị tẩy xóa hoàn toàn. Sau hai mươi năm (1954-1975)
có lá cờ đỏ bay trên Hà nội, không có nhà văn nào xuâát
bản được mười mươi tác phẩm, chỉ khoảng vài ba. Sở
dĩ có hiện tượng này vì nhà văn miền Bắc đuơcï đối
xử như một thứ nhân viên của nhà nước. Các tác phẩm
của họ có xuất bản được hay không là do sự quyết định
cũng của nhà nước.
Cho nên :"nếu viết lách thì phải
có danh lớn, hoặc bồ bịch, hoặc bè phái thì mới hy vọng
được in, vì vậy ta thấy có nhiều cuốn có lời đề tựa
của một "anh lớn", thứù trưởng, viện trưởng nào đó,
điều đó tối kỵ ở trong Nam...(Hồi Ký, Tập III, Nguyễn
Hiến Lê, trang 177)
"Ở trong Nam", ông Nguyễn Hiến
Lê vừa viết, vừa dịch gần một trăm hai mươi tác phẩm,
ông Bình Nguyên Lộc cho ra mắt bạn đọc hơn năm mươi tác
phẩm từ khảo cứu đến tiểu thuyết. Thuộc vào hàng mạnh
mẽ như Bình Nguyên Lộc, không thể bỏ qua Võ Phiến. Ðó
là nói đến các người viết tương đối rảnh rang. Một
số các tay viết mới, vừa cầm súng vừa cầm bút mà vẫn
đều đặn sáng tác:
Văn học ta từ mấy chục năm
Viết trong khoiù lửa, đọc trong
hầm
Nhà văn cầm súng mau hơn bút
Máu chảy từng trang mực cũng
bầm
(Thủy Mộ Quan, Viên Linh)
Ngoài những nhà xuất bản của
tư nhân như Khai Trí, Lá Bối, Nguyễn Ðình Vượng...rất nhiều
tác giả kiêm nhà xuất bản như Nguyễn Hiến Lê (nhà Ðại
Nam Văn Hiến), Bình Nguyên Lộc (nhà Bến Nghé), Võ Phiến (nhà
Thời Mới), Sơn Nam và Ngọc Linh (nhà Phù Sa) nhóm Mặc Ðỗ,
Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng (nhà Quan Ðiểm)...
Các tác giả có người như Viên
Linh vừa là tác giả, vừa là chủ nhà in. Có lúc ông làm
tổng thư ký tòa soạn tờ Tiền Tuyến, một tờ báo của
quân đội. Lúc khác làm tổng thư ký tờ Khởi Hành tuy mang
tiếng của hội Văn nghệ sĩ Quân Ðội (chủ nhiệm Ðại
Tá Anh Việt Trần Văn Trọng) nhưng tuyền văn chuơng cũng như
tờ Thời Tập mà ông làm chủ nhiệm. Có người như Nguyễn
Hiến Lê chuyên chú vào việc biên khảo và dịch sách, không
đả động gì đến chính trị hoặc thời sự. Trường hợp
các tác giả này được dẫn ra đây như trường hợp điển
hình, không phải về phương diện sáng tác mà về sự độc
lập và tự do hầu như hoàn toàn mà các người viết miền
Nam đã có, cũng từ 54 tới 75.
1975.
LẠI NGƯỜI Ở LẠI
Tháng tư, 1975, nhà cầm quyền cộng
sản trở thành nhà cầm quyền Việt nam khi quân đội miền
Nam hoặc bị triệt hạ, hoặc phải buông súng.
Cũng như 1956, Chính Trị sẵn sàng
dậy lại bài học đẫm máu cho Văn Nghệ. Nhà nước vẫn
đinh ninh rằng lần này hẳn càng không gặp khó khăn gì. Những
kẻ có công với cách mạng như Phan Khôi, Văn Cao còn bị đầy
đọa, làm cho cất đầu chẳng lên; những người từng trải
mật phơi gan theo kháng chiến nay đã ngoan ngoãn phục tùng
thì xá gì các anh nhà văn miền Nam?
Các anh từng là những người bị
kết án đồi trụy, hưởng lạc, quen thói hưởng thụ kiểu
tiểu tư sản, chỉ biết làm thơ ái tình...thì sao dám chống
lại nhà nước?
Mở màn vẫn là những cuộc truy
lùng và khủng bố. Tác phẩm chịu chung số phận với tác
giả. Những nơi lam sơn chuớng khí lại có dịp tiếp đón
những người tù văn nghệ mới.Trừ số đã thoát đi, số
ở lại sẽ phải chịu đựng sự trả thù, đàn áp dai dẳng
và dã man chưa từng có trong lịch sử Việt.
Người cộng sản chờ đợi sự
khuất phục toàn diện của họ. Nhưng câu trả lời là một
sự chống lại can đảm và dai dẳng không kém. Vũ Hoàng Chương,
môt nhà thơ gày gò yếu đuối, vẫn quen sống đài các, mài
miệt cuộc đời bên Thơ và Khói mới năm năm trước đây
tỏ ý chán làm thơ, bỗng làm thơ trở lại. Không phải thơ
Say mà là thơ miệt thị giới lãnh đạo và cho phổ biến
công khai. Oâng bị giam cầm đến kiệt quệ tàn hơi nhưng
vẫn chịu đựng đến phút cuối cùng. Bùi Giáng, có những
cơn điên rất tỉnh như mặc áo lính cũ rong chơi ngoài đường.
Lúc không điên, ông có thơ tặng như sau:
Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn
Thu Bồn cảm động, sờ...tay
Thu Ba. (Thu Bồn là một nhà văn thuộc hội nhà văn VN-
Thu Ba là một nghệ sĩ)
Ở trong tù, anh vẫn sáng tác. Sáng
tác để tự nuôi dưỡng, tự sống còn. , Trước đó hầu
như miền Nam không có văn thơ "sát cộng." Loại văn thơ này
vẫn bị coi như một thứ văn chương "tâm lý chiến", "anh
tiền tuyến, em hậu phương"...nhà văn đứng đắn không can
dự vào loại văn chương- ăn- lương đó. Những trận chiến
đẫm máu, kinh hồn chỉ để lại những dòng thơ chán ngán
khinh bạc. Nhưng bây giờ, bị lôi ra khỏi vườn địa đàng
và ném vào tù, anh chỉ nhớ mỗi một điều: anh không còn
tự do nữa. Chung quanh anh là bằng hữu, những kẻ rồi ra
anh sẽ bắt buộc phải kể tên kể tội trong bản tự kiểm
thảo. Hóa ra ngòi bút anh chỉ để dùng vào những việc đóc
hèn thế sao? Anh quẳng nó đi, anh chịu bị cùm. Bình thường
có lẽ anh cũng chẳng can đảm hơn ai. Nhưng đứng ngay trên
bờ vực tử sinh ấy, anh chợt nhớ lại những ngày anh còn
đượcï viết những điều anh nghĩ. Và trách nhiệm với những
điều anh đã viết khiến anh không thể ruồng bỏ chính anh
và phản bội bạn anh, Vả lại, anh không nuôi dưỡng bất
kỳ thứ ảo tưởng nào về người cộng sản sau khi đã biết
quá rõ về cuộc trừng trị những người viết miền Bắc,
cuộc trừng trị đã làm trăm hoa chết khiếp, trăm nhà tắt
tiếng. Chính sự "taté tiếng" ấy làm miền Bắc chết dở.
Không riêng gì người viết mà đám lê dân cũng bị ngược
đãi, cũng bị tàn hại. Nhưng sau một thời gian trong tù, anh
nghiệm ra rằng với bao khổ hình đáng khiếp ấy, anh lại
người chứng nếu anh may mà sống sót. Anh nhặt lại ngòi
bút. Ðó là thứ vũ khí duy nhất người cộng sản không thể
tịch thu hay phá hủy. Không giết đuoc ai nhưng ngòi bút đã
đuổi được giặc, dư sức làm sụp đổ một chế độ.
Những câu thơ lầm thầm trong trí
óc, những câu thơ anh không ngâm ư ử được như ngày xưa
nhưng đã có người nhớ hộ anh, nhẩm hộ anh và rao truyền
cho bá tánh. Những câu thơ như những mũi tên bay vụt khỏi
vùng đất ung nhọt nơi anh đang sống.
Vĩnh biệt ta mười năm chết
dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn
thu
Mười năm mặt sạm soi khe nuớc
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ...
(Ta Về, Tô Thùy Yên)
Cho đến bây giờ, vẫn chưa có
nhà văn nhà thơ nào từ miền Nam chịu đầu phục bằng tác
phẩm mới ca ngợi cộng sản hay chối bỏ, mạt sát tác phẩm
cũ như một số nhà văn thời Giai Phẩm, Nhân Văn phải làm
để thoát thân. Ngược lại, bằng cách này hay cách khác,
trong hay ngoài tù, họ đều tìm cách phản kháng. Học giả
Nguyễn Hiến Lê, người vẫn có cảm tình và tin tưởng vào
sự trong sạch của chủ thuyết và đảng viên cộng sản,
sau 1975 "va...thân xác ông đã vùi xuống quê hương miền Nam,
nhưng tác phẩm của ông, tâm hồn của ông vẫn hướng về
chúng ta; sự lầm lẫn trong đời ông cũng hướng về chúng
ta mà bộc bạch, vẫn tiếp tục trước tác, nhưng tuyệt nhiên
không cho in một trang sách nào dưới chế độ mới. Mọi bản
thảo, di cảo của ông, một khi viết xong liền được chuyển
ra hải ngoại {(trang XIII, Lời Nhà Xuất Bản, Văn Nghệ, Hoa
Kỳ, 1988)
Chỉ trong vòng ba năm đã có ba
lần người cộng sản ra lệnh tịch thu và tiêu hủy sách,
đốt sách. Có bao nhiêu lệ "khốc thư" sau khổ nạn "phần
thư" ấy? Có bao nhiêu người đòi chết theo sách như Vương
Hồng Sển (sđd)? Ông Nguyễn Hiến Lê, tuy đã thấy số phận
của sách và của tác giả khác, vẫn không ngần ngại "kể
tội cộng sản Việt Nam khúc chiết và toàn diện" (sđd) trong
tập Hồi Ký gồm ba quyển, một trong những tác phẩm cuối
cùng, hoàn thành chỉ ba năm trước khi ông qua đời.
LẠI NGƯỜI RA ÐI
Sau 1975, những sáng tác được
chuyển ra ngoại quốc của Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Hải Thủy,
Tô Thùy Yên và nhiều người dưới các bút hiệu khác là
sự đóng góp quý hóa cho nền văn học Việt Nam ngoài nước,
duy trì bởi số người cầm bút rời khỏi quê hương,
Lúc đầu, người đi không tránh
khỏi cái day dứt, dằn vặt, cái bẽ bàng của nỗi sầu mất
nhà tan nước.
Có anh bẻ bút vất vào một xó.
Anh thề không viết nữa. Chữ vô dụng. Nghĩa vô dụng. Viết
làm gì? Viết đưa ai, ai biết mà đưa? Anh thấm thía cái đau
của kẻ bỗng nhiên không còn đất đứng. Quê là quê người.
Anh đi đã xa lắm rồi. Không thể trở về nữa, đã như Từ
Thức lạc mất Thiên Thai. Muốn lắm màkhông được. Anh không
muốn nhớ gì cả. Nhất là thời gian, những chuỗi dài giây
phút kéo đi lê thê. Anh mắc cạn ở một lòng sông khô nẻ,
anh ngồi trì trệ một góc trong phần thần trí tối ám.
Anh hỏi làm chi ngày với tháng
Ðầu râu chưa bạc trí đà xiêu
Tâm ta ta gửi bờ sông hận
Còn xác ta trôi tựa cánh bèo
Có phải ta còn ta đã mất
Mười điều trung tín chín điều
điêu
Quê người họ Nguyễn rơi khăn
nhỏ
Một bệnh u cư ít hóa nhiều...
(Nước Mặn, Viên Linh)
Anh không muốn nhớ nhưng anh tưởng
anh quên được sao? Vũ tướng tiêu sầu duy hữu tửu. Văn
thần thoái lỗ cánh vô thi. Anh không phải là tướng võ nhưng
có lần anh cũng say khật khưỡng . Mà không tiêu nổi sầu.
Tri giác tê liệt, anh không làm nổi thơ, huống gì thơ phá
giặc.
Nếu bạn anh ở lại, chỉ nghĩ
đến một điều, là tự do; thì ra đi anh cũng chỉ nhớ mỗi
một điều, là quê nhà. Quê nhà có những con đường bụi
mù anh đi lên đi xuống trong một buổi trưa hâm hấp nóng.
Có Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau (Nguyễn Du). Có người yêu đến tìm anh, đi với
anh trong cơn mưa sầm sập đầu mùa. Có "Ðá mòn rêu nhạt.
Nước chảy huê trôi" (Tản Ðà). Có những hình tượng, hình
bóng, chính hình bóng của anh nữa, về luẩn quẩn, lộn đi
lộn lại trong ký ức như những vòng quay chậm chạp không
ngừng của một chiếc đèn kéo quân mỏi mệt.
Khi các ông vào tôi bẻ bút.
Không khi nào nữa có văn chương.
Như Kiều đã đến bờ sông hẹn. Thôi có cần chi phải nói
hơn. (Thủy Mộ Quan, Viên Linh)
Trong giấc ngủ lơ mơ, anh "giật
mình còn tưởng tiếng ai gọi đò" (Trần Tế Xương) Anh
đã là giọt nước lìa khỏi dòng sông. Anh trở thành nhà
văn nhà thơ lưu vong, viết ngôn ngữ mình trên một đất nước
hoàn toàn xa lạ. Rồi cũng như bạn anh ở lại, viết để
sống còn; anh ra đi cũng viết để sống còn. Viết không riêng
gì cho anh mà cho người ở lại, cho quê nhà. Ðã bao người
cầm bút trước anh đã hành xử hệt như thế vì những câu
thơ cực kỳ lãng mạn trong Tống Biệt Hành không chuẩn bị
cho cái chết khốc liệt của tác giả Thâm Tâm, mất tích
bên bờ sông Ðuống trong một lần Pháp oanh kích. Vũ Trọng
Luật, Khái Hưng, Lan Khai bị cộng sản triệt hạ ngay từ
những ngày đầu. Rồi bao nhiêu cái chết tương tự ở miền
Nam như Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường...
Những nhà văn Miền Nam như Võ
Phiến, Mai Thảo, Nguyên Sa, Viên Linh, Lê Tất Ðiều...ra báo
văn học. Những nhà văn trẻ hơn lớp này một chút như Hà
Thúc Sinh có những cuốn như "Ðại Học Máu" ghi lại tình
trạng khổ nhục trong tù mà hầu như cả nước phải chịu.
Loay hoay với những ràng buộc , eo sèo của đời sống, họ
vẫn viết và thêm một điều chưa từng làm ở miền Nam:
họ thành lâäp, tham gia những tổ chức để gióng lên tiếng
nói cho nhà văn, cho dân tộc: Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Trần
Tam Tiệp, Viên Linh thuộc Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại; Phan
Lạc Tiếp và Tiến Sĩ Nguyễn Hữu Xương thành lập tổ chức
UŒy Ban Báo Nguy Cứu Người Vượt Biển; Hà Thúc Sinh sáng
lập phong trào Hưng Ca...Thanh Nam làm Ðất Mới; Võ Phiến dựng
Văn Học Nghệ Thuật; Mai Thảo chủ trì tờ Văn không ngớt
nhắc nhở, dóng dả về anh em của văn học miền Nam còn ở
lại và cố gắng của anh em ra đi...
1989.
KHÔNG THỂ VIẾT TỰ DO DÙ Ở
NGOÀI TÙ
Năm 1989, đại hội nhà văn Việt
Nam họp lần thứ tư, đánh dấu lần đầu các nhà văn hội
viên công khai chỉ trích chế độ. Cả người phê bình lẫn
người bị phê bình đều là đảng viên hay cán bộ cao cấp,
hoặc trung thành với đảng, có người tham dự trực tiếp
vào cuộc đánh chiềm miền Nam mà họ gọi là "giải phóng
miền Nam khỏi đế quốc Mỹ" dù cuộc đánh chiếm miến Nam
này rõ ràng là một cuộc xâm lấn lộ liễu, nghiễm nhiên
vi phạm tất cả những thỏa ước đã ký mà quan trọng hơn
hết thảy là không đếm xỉa gì đến nguyện vọng của dân
chúng miền Nam là không muốn có sự có mặt của chế độ
cộng sản. Hội nhà văn này dĩ nhiên không thu nhập các nhà
văn tự do miền Nam. Trần Bạch Ðằng, người bị các nhà
văn khác trong đại hội này ra mặt chống lại ("...Nhà văn
Trần Bạch Ðằng là người mà trung ương cố đưa vào ban
chấp hành hội nhà văn khóa này...lên diễn đàn cũng bị
đại hội la ó không cho nói..."- Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê
Hương, trang 355) từng là Uûy Viên Trí Vận của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, từng thú nhận "nằm vùng " lén lút ở
miền Nam khoảng 1956-1958:
-[...] để phân tích "vụ án" kia
vì bấy giờ tôi đang ở trong Nam, đang cởi trần truồng lội
đêm giữa bốn bề đồn giặc để dự một cuộc họp Huyện
Uûy ...(trang 464, sđd) .
Người coi như can đảm nhất, có
khí thế hăng hái nhất trong phong trào phản kháng là nhà văn
Dương Thu Hương cũng tự xưng mình là một người lính "chống
Mỹ" chống "đế quốc Mỹ", "xung phong vào Bình Trị Thiên"...(sđd,
trang 194, 195).
Phong trào phản kháng này gây sôi
nổi một dạo ở ngoại quốc. Kẻ bênh người chống. Ðó
cũng là lúc các tác phẩm của Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương,
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp rồi Bảo Ninh...bắt đầu
có sự chú ý của độc giả ngoài nước. Một số tác giả
mới viết ở ngoại quốc như Trần Vũ- được xem như có
triển vọng văn chương (tài hoa, mạnh bạo... bởi những nhà
phê bình như Ðặng Tiến trong phần nói chuyện với bà Thụy
Khuê về "tình trạng văn học hải ngoại, việc giao lưu văn
hóa, vai trò nhà văn Việt Nam ở nước ngoài..."-chữ của
ông Ðặng Tiến- đăng trên Hợp Lưu số 18, tháng 8&9.1994,
trang 57) đã hết sức thần phục những nhà văn này đến
nỗi uốn lưng, giập đầu (Truyện Kiều, Nguyễn Du) mà "sáng
tác " ra những câu sau đây : "Sợ, phục mê Nguyễn Huy Thiệp
là mê trình độ, giá trị nghệ thuật của tác phẩm..." ,"...chính
trình độ và tư duy cao đó làm người viết ở hải ngoại
chùn tay...", "...sức tàn phá của văn chương quốc nội lên
ngòi bút của những người ngoài nước..." (tài liệu của
Bùi Vĩnh Phúc, Lý Luận và Phê Bình- Hai Mươi Năm Văn Học
Việt Ngoài Nước 1975-1995, trang 623)
Nhưng cũng riêng về khía cạnh
văn chương ấy, các nhà văn kỳ cựu của miền Nam không ai
lấy làm lạ.
-... Những Thiên Ðường Mù là
một phó sản của văn học miền Nam. Không có biến cố 1975,
không "ngấu nghiến đọc văn chương miền Nam trong khi các
bạn gái khác đi mua sắm son phấn, đồ lót " như cô từng
xác nhận (tôi không nhớ nguyên văn), Dương Thu Hương không
viết được cuốn sách đó... (Nhà thơ Viên Linh tra ûlời
Phỏng Vấn, Văn Học số 101, tháng 9.1994, trang 13)
Nhà văn Mai Thảo, "trùm văn nghệ
", còn nói rõ hơn nữa:
-...Tôi có đọc mấy cuốn của
Dương Thu Hương, một hai cuốn của Phạm Thị Hoài, một vài
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Một số những sách của
những tác giả vừa kể tôi thấy cũng là được thôi. Chứ
không có gì là xứng đáng để gây chấn động hết....Và
tôi chỉ thích có mỗi một điều là những lúc được trong
văn của họ thì rất giống với văn chương mà họ gọi là
"văn chuơng ngụy" của miền Nam Việt Nam...Tôi không nghĩ rằng
mình nói như vậy là hơi quá, nhưng tôi nghĩ một phần như
vậy là vì họ đã bắt chước cái cách viết tiểu thuyết,
viết truyện ngắn của những nhà văn miền Nam Việt Nam trước
1975... (Mai Thảo trả lời Phỏng Vấn, 1993)
Các nhà văn miền Nam trong nước
có phản ứng gì về những dấu hiệu cho là "đổi mới, cởi
trói" này. Ho suy nghĩ ra sao? Và phản ứng của nhà văn ngoài
nước?
1999.
VĂN CHƯƠNG PHẢN KHÁNG? AI PHẢN
KHÁNG?
Hai mươi lăm năm là một thời
gian dài, đủ để người ta có thể kiểm nhận những giả
thuyết mà nếu không có yếu tố này và những biến cố đi
kèm, sẽ không thể kết luận được.
Chế độ cộng sản nay tuy đã
biến đổi nhưng trên thực tế vẫn là một thứ bạo chúa,
ngụy trang vào giáo điều cũ. Những người tù mới được
thả ra như Thượng Tọa Tuệ Sỹ (hiện đang được Giáo Hội
Phật Giáo Thống Nhất bổ làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo)
vẫn chưa được tự do phát biểu và di chuyển. Các người
cầm bút miền Nam trước sau chọn một thái độ duy nhất:
bất hợp tác và chống lại nhà cầm quyền cộng sản bằng
cách hoặc không viết để không ai có thể tưởng lầm rằng
đã có đổi mới hoàn toàn hoặc có viết thì (có khi) ký
tên thật,viết sự thật và chuyển ra ngoại quốc cho in, cho
phổ biến. Nhà cầm quyền không thể mỗi lúc mỗi cởi trói,
mở rồi lại trói vì họ có để cho bị trói đâu? Họ có
viết khi được "cởi trói" đâu?
Ðó là thái độ mà nhiều nhà
văn-dù can trường-không làm được, chỉ vì sức cám dỗ
của văn chương:
-.Nguyễn Quang Lập: [...] Tôi muốn
hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi hội nhà năm, sau đó
thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết
đơn để được vào lại các anh lại viết?
-Trần Dần: Lúc ấy, tôi thật
khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi vào phản Nhật
ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng
nghĩ lại mình tuổi già đã hết cái máu ấy rồi. 63 tuổi,
nếu được hoạt động hai năm nữa cũng qúy rồi, cố mà
ra khỏi đó. Sau đó có nhiều người chất vấn tôi mà tôi
không trả lời được. Như thế quả là hèn thực. Ðáng lẽ
là một Silence de la mort... (Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương,
trang 450)
Tưởng tượng anh đã từng viết!
Viết là sự quyến rũ réo gọi anh còn hơn đôi mắt thuyền
của mỹ nhân. Không viết cũng có nghĩa là không được sống:
làm sao anh ngoảnh mặt đi trước những chữ nghĩa mà anh từng
ôm ấp? Nhưng anh tự nguyện không viết chỉ vì sự trung thành
với chính lòng anh: khi không có tự do, là không viết. Mà
nào anh đã có tự do.
Cái không có tự do ấy được
một nhà văn được coi là cấp tiến cả về văn chương lẫn
chính trị, Nguyễn Huy Thiệp, bày tỏ trong một cuộc gặp
gỡ độc giả tại phòng hội của Trung Tâm Nghiên Cưú Nam
và Ðông Nam Á Châu thuộc trường đại học Berkeley để trả
lời một số câu hỏi liên quan đến tình hình chung trong nước.
Nhà văn này đã nói những câu nguyên văn như sau: " Tôi không
liên quan gì đến Lưu Quang Vũ cả. Mỗi người có một số
phận...", "...Khó khăn lắm. Bạn cứ viết đi rồi biết. Ðứng
trong sự nguy hiểm về tình cảm, về tài chánh và nguy hiểm
về chính trị nữa..." "...Tôi rất sợ nhà tù. Ở đâu cũng
có trật tự của nó. Chuyện trong tù không phải thị hiếu
của tôi"; "...Dương Thu Hương là người can đảm hơn tôi...Tôi
không can đảm bằng bà ấy nhưng có thể tôi khôn hơn" vv...
Một nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp
mà không thể nói đến nhà tù, không thể bàn về một nhà
văn khác mới qua đời (vì cái chết của nhà văn này có nghi
vấn là dính dáng đến nhà cầm quyền), mà còn phải kêu
lên về những "nguy hiểm chính trị" thì sự gọi là đổi
mới hay phản kháng có từ năm 1989 quả không có kết quả
là mấy. Nếu khi người cộng sản mới nắm quyền ở miền
Bắc, văn học có câu nói tương truyền là của nhà văn Nguyễn
Tuân "tôi nhờ biết sợ mà sống đến bây giờ" thì nay khi
người cộng sản nắm được cả Việt Nam, nền văn học
này lại có thêm một câu nói thành thực hơn, chua chát hơn
mà cũng ê chề hơn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp " tôi không
can đảm bằng...nhưng có thể tôi khôn hơn" . "Khôn hơn" để
tránh không nói đến nhà tù hay những vấn đề có thể làm
người nắm quyền giận dữ.
Người ta phải nhận ra một điều
rất rõ: là sự khác biệt giữa thái độ của nhà văn hai
miêàn. Những nhà văn miền Nam được sống tự do, được
viết tự do, không bao giờ phải luồn lách, e sợ trước kia
nay sẵn sàng bỏ viết nếu họ không thể có sự tự do hoàn
toàn ấy. Mà nếu họ có viết thì họ ký tên thực, viết
rõ sự thực và gửi ra ngoại quốc. Như Nguyễn Hiến Lê đã
làm cách đây mười mấy năm và Nguyễn Thụy Long mới làm
năm ngoái. Khi họ lên tiếng dù trong hay ngoài nước, những
người từng bị người cộng sản cầm tù còn ở trong nước
hay thoát ra ngoài nước không hề dấu diếm ý nghĩ của họ:
-[...] Thêm nữa, tôi cũng còn muốn,
qua việc xuất bản đó, gián tiếp nói lên với nhà cầm quyền
hiện nay ở Việt Nam rằng tôi, giữa đông đảo những người
cầm bút khác của miền Nam trước đây, đã chẳng hề chối
bỏ những tác phẩm đã được hình thành trong quá khứ của
mình, rằng qua bao nhiêu dập vùi đày đọa, những thi sĩ vẫn
còn sống, thơ vẫn còn sống..." (Nói chuyện với nhà thơ
Tô Thùy Yên , Nguyễn Tà Cúc, Khởi Hành số 26, 12.98, trang
20, Hoa Kỳ)
-[...] Người dân sống vô cùng
khổ sở đủ thứ tai ách đổ trên đầu trên cổ họ, y như
sống dưới chế độ thực dân, tuy có được học tập tuyên
truyền rằng đó là yêu nước. ...Tình thật phải nói ra như
thế. Dù nói có đụng chạm có nguy hiểm cho bản thân người
phát ngôn... (Hồi Ký Trên Gác Bút, Nguyễn Thụy Long, Khởi
Hành số 27, trang 23, 1.1999- Viết tại Việt Nam, gửi ra đăng
trên Khởi Hành tại Hoa Kỳ)
Sự chống đối của họ càng thuận
lợi hơn so với thời Văn, Nhân Văn, Giai Phẩm vì sau 1975,
nhà cầm quyền không thể bưng bít nguồn tin tức như xưa.
Mà đầu tiên là nhà cầm quyền không thể tiếp tục dối
trá về sự giàu có cả về kinh tế lẫn văn chương ở miền
Nam. Tình hình chính trị lại càng rõ ràng hơn nữa: người
dân miền Nam bỏ đi từng loạt bằng đường biển kéo theo
người dân miền Bắc cũng ra đi ở những nơi gần biển như
Hải Phòng...Và sinh ra một loạt văn chương dân gian như "Ðố
ai đọ phấn với vôi. Ðọ l...con đĩ với môi chú Ðồng"
(Thủ tướng Phạm Văn Ðồng vốn có đôi môi "cặp chả ")
hay "Ngày xưa tướng Giáp giữ đồn. Ngày nay tướng Giáp giữ
l... chị em" (Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp khi bị thất sủng,
bị cử giữ chức nghiên cứu về kế hoạch ngừa sinh nở).
Lần này thì trăm nhà không chịu im tiếng.
-Nhờ biến cố 1975, các nhà văn
miền Bắc mới được thở không khí của thế giới tự do,
qua cửa ngõ Sàigòn, và luồng không khí này thổi một sinh
khí hồi sinh cho những người cầm bút miền Bắc.[...]Lần
đầu họ thấy được tâm hồn và đất nước người, cũng
như tâm hồn và đất nước miền Nam. Lần đầu họ thấy
sản phẩm của nền văn học tự do. Từ sự mở mang này mà
có Những Thiên Ðường Mù, có Dương Thu Hương và các thứ.
Nền móng của văn học phản kháng chính là văn học miền
Nam (đương nhiên cũng chỉ xảy đến cho những người cầm
bút ý thức)...
(Viên Linh, Trả Lời Phỏng Vấn
"Hai Mươi Năm Văn học Hải Ngoại", Văn Học số 101, trang
14, 9.94, Hoa Kỳ)
May mắn hơn nữa là biến cố 1975
giúp cho một số nhà văn miền Nam thoát đi trước. Chính số
nhà văn này-như đã dẫn- là những người duy trì nền văn
học đa dạng, rực rỡ của miền Nam và là một hậu thuẫn
lớn lao khi họ cho phổ biến sáng tác của những người cầm
bút còn ở lại. Như Thời Tập (chủ nhiệm Viên Linh, Hoa Kỳ)
đăng bài Hoàng Hải Thủy, nhà thơ Viên Linh cho in lại tác
phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Văn (chủ nhiệm Mai Thảo, Hoa Kỳ)
cho đăng lại thơ văn của người cầm bút miền Nam còn ở
lại trong nước hay các sáng tác ký dưới bút hiệu khác,
Khởi Hành (chủ nhiệm Viên Linh, bộ mới, Hoa Kỳ) đăng thơ
Vương Ðức Lệ, văn Nguyễn Thụy Long...
SẼ CÓ LÚC VĂN CHƯƠNG KHÔNG
PHẢI Ở LẠI HAY RA ÐI
Như thế, cho đến nay, vẫn còn
hai dòng văn học ngay ở trong nước: một của những Nguyễn
Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phan Thị Vàng Anh, Hoàng Phủ Ngọc
Tường... và một của những Nguyễn Thụy Long, Văn Quang, Thế
Phong...Thứ "văn chương" của những người "quản giáo văn
nghệ" như Trần Bạch Ðằng, Tố Hữu không thể gọi là "dòng"
được. Bởi thế, cho dù không nói rõ ra, ông Nguyễn Huệ
Chi, giáo sư phó Viện trưởng viện Văn Học Việt Nam, hẳn
phải quan tâm đến mà viết ra rằng:" [...] trong xu thế hòa
hợp, giao lưu hôm nay, giữa những người Việt trong nước
với trong nước..." (Nguyễn Huệ Chi, Và Cảm Nhận Văn Học
Việt Nam Hải Ngoại, Hợp Lưu, số 18, trang 41). Nhà thơ Viên
Linh trong bài đã dẫn, chỉ ra như một bằng chứng là vẫn
có sự đàn áp nhà văn miền Nam trong nước:
...Chỉ vài chữ thôi, ít ra ông
Nguyễn Huệ Chi cũng có cái gan của một kẻ sĩ, Ngay ở trong
nước mà không hoà hợp giao lưu được, thì giao lưu với
hải ngoại nghĩa là gì? Chỉ là một khía cạnh kiều vận,
kiều vận trên mặt trận văn hóa...
Cho nên, sự kêu gọi hợp lưu văn
nghệ là một sự kêu gọi không nên đặt ra, giản dị chỉ
vì trong văn chương miền Nam, ngay từ những năm đầu ra đi
hay ở lại và tới cả bây giờ, đã không bao giờ có sự
nhầm lẫn giữa nhà cầm quyêàn cộng sản và dân tộc Việt
Nam ở cả hai miền, không bao giờ có sự quy trách nhiệm vào
những nhà văn trong nước đã không thể tách bạch hơn khi
chỉ trích cộng sản. Ngay cả khi một số nhà văn (miền Bắc)
như Dương Thu Hương nhiều lần nhắc đi nhắc lại là cuộc
chiến chống "đế quốc Mỹ" dù trên thực tế, đây là một
cuộc chiến xâm lược rõ ràng để lấy nốt miền Nam, gây
ra xiết bao điêu linh cho không riêng gì dân miền Nam mà còn
cho cả hai miền, đã không có nhà văn miền Nam nào nặng lời
thóa mạ cá nhân Dương Thu Hương. Vì trách nhiệm không ở
những người bị bịt mắt bắt cầm súng như bà ta, mà ở
những người chủ trương cuộc chiến này:
-[...]Dân tộc Việt Nam bao giờ
cũng vẫn chỉ là một. Không có vấn đề hòa hợp hòa giải
dân tộc. Chỉ có các chính quyền hay phe phái mới noí đến
chuyện đó...[...] Văn chương không có lằn ranh nên cũng chẳng
cần hòa hợp hòa giải...
(Thảo Trường trả lời phỏng vấn
của Nguyễn Mạnh Trinh, Văn, trang 30, 12.1996- Thảo Trường,
quê ở Nam Ðịnh, có thân mẫu bị đấu tố trong vụ Cải
Cách Ruộng Ðất, di cư vào Nam năm 1954, vào lính khóa 6 trường
Sỹ Quan Thủ Ðức, cựu sĩ quan pháo binh, cựu sĩ quan nghiên
cứu ở cục An Ninh Quân Ðội, là một trong những nhà văn
miền Nam bị cầm tù lâu nhất, 17 năm, chuyển qua 18 trại
tù từ Nam ra Bắc, sang định cư với gia đình tại miền nam
CA sau khi được thả khoảng một năm - Chú của NTC).
-[...] Hãy giao lưu với bằng hữu
của chúng tôi hiện còn ở trong nước trước. Ðó là những
người đồng chí hướng và từng thuộc vào một dòng văn
học với chúng tôi, Khi những Doãn Quốc Sỹ, Tuệ Sỹ, Vương
Ðức Lệ, Mai trung Tĩnh, Hoàng Hải Thủy, Cao Huy Khanh, Bùi
Giáng chưa in được tác phẩm ở trong nước, chưa viết được
trên báo chí xuất bản ở trong nước thì thế nào là giao
lưu? Cho tới giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy họ muốn giao
lưu với những người mà họ chưa bỏ tù được, còn với
những người họ bỏ tù được thì vấn đề tự nhiên triệt
tiêu, đối tượng đã không còn thì làm gì còn vấn đề
mà đặt ra nữa. Một sự thật lớn lao như thế mà không
chịu nhìn nhận, thì là lấn lướt giả trá, không có gì
nên bàn đến nữa... (Viên Linh, Trả Lời Phỏng Vấn, Văn
Học số 101,trang 17, 9.94, Hoa Kỳ )
-...Về mặt chính trị, nếu VNCH
có mờ nhạt trên trường quốc tế trong cuộc chiến vừa
qua là vì chế độ đó không được chơi bựa trong khi phía
đối phương thì mánh nào họ cũng có thể giở ra...[...]Tôi
bị cộng sản bỏ tù lâu vào tận đáy vực của họ để
thấy một điều rõ ràng là họ gỉả dối một cách thiệt
tình, họ tàn nhẫn rất nhiệt tâm, độc ác nhân danh lòng
nhân đạo. Những người cộng sản cấp dưới không biết
việc họ làm, vì thế tôi không thù hận họ. Song những lãnh
tụ của họ thì phải chịu trách nhiệm về những tan nát
của quê hương Việt Nam (Thảo Trường, bđd, trang 21)
-[...] Trong hai mươi năm chiến tranh,
người cộng sản tấn công phe tự do bằng súng đạn và bằng
cả bùn đất nữa. Ðể thủ thắng, họ vừa bắn phá, vừa
nỗ lực bôi trát bùn đen lên mặt mũi chúng ta. Nước Mỹ
giúp miền Nam tự do thì hóa thành anh đế quốc gian ác. [...}
Còn mặt mũi miền Nam Việt nam thì ôi thôi: Bẩn thỉu hết
chỗ nói...
(Lê Tất Ðiều, Thư Về Bloomington,
Illinois, trang 124, 125, Văn Nghệ xb, 1997, Hoa Kỳ)
Văn chương của người cầm bút
miền Nam không hề có những "hiện tượng" như những chữ
"ngụy" xuất hiện trong tác phẩm của Bảo Ninh. Trong lời
phát biểu của họ, không hề có việc họ không đếm xỉa
gì đến một nửa dân tộc trên vĩ tuyến 17, như cảm tưởng
mà các nhà văn miền Bắc đã cho người đọc về nửa dân
tộc ở miền Nam. Khi tranh đấu, các nhà văn miền Nam tranh
đấu cho quyền tự do tư tưởng của mọi nhà văn không kể
là từ Nam hay Bắc. Ðiều này hoàn toàn không thấy có ở
những nhà văn miền Bắc:
-...Những Thanh Tâm Tuyền, Doãn
Quốc Sỹ, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng...nay
bắt mai thả. Không một ai dưới mười năm đầy ải. Mai
Thảo nêu lên một câu hỏi: Những người như Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Nhật Tuấn...cùng
những nhà thơ, nhà văn khác của miền Bắc đâu? Họ giữ
thái độ mũ ni che tai. Tuyệt không có một lời nói, một
cử chỉ gọi là có một tấm lòng...
(Hoàng Khởi Phong, Gối Ðầu Lên
Chữ Nghĩa, Nói Chuyện với Nhà Văn Mai Thảo, Văn Học số
102, trang 6) .
Những người mà nhà văn Mai Thảo
liệt kê đã có thái độ "mũ ni che tai" vì hai lý do. Hoặc
là vì lý do chính trị: họ vẫn tin là họ có "chính nghĩa"
hơn các "Mỹ Ngụy". Hoặc giản dị chỉ vì sợ liên lụy
mà kết quả có thể nhẹ thì "nhà tù" như Nguyễn Huy Thiệp
đã nhắc hay nặng thì thảm khốc như vụ Nhân Văn, Giai Phẩm
hay như cái chết của cả gia đình Lưu Quang Vũ. Một nền
văn học xây dựng trên sự đe nẹt như văn học miền Bắc
thì lâu lắm mới cởi được những cái mũ ni này và cũng
lâu lắm mới ngừng sản xuất ra những nhà văn bằng lòng
cầm lấy mà che tai. Ðó không phải là một nền văn học
nhân bản đã tạo ra được những nhà văn "dũng lực" (chữ
của nhà văn Mặc Ðỗ) hay có tư cách văn chương có thể
đại diện cho một dân tộc như nền văn học miền Nam. Lần
nữa, thời gian lại là yếu tố rất cần thiết để người
ta đo đạc sự chính xác của nhận xét trên. Nhà văn mới
lớn như Trần Vũ không nghĩ đến yếu tố này nên đã vội
vàng kết luận rằng "...đại đa số các tác giả nổi tiếng
của miền Nam truớc 75 đều đã về hưu ở cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng.... (Thụy Khuê phỏng vấn Trần Vũ, Hợp
Lưu số 18, 1994)
Trước hết, "nổi tiếng" chưa
chắc đã có thực tài. Nếu không có "thực tài" thì chính
độc giả mới là người cho họ "về hưu". Còn nói chung chung
thế thì không đúng. Nói không đúng là còn lịch sự. Vì
ông Trần Vũ mới lớn nên thương hại mà nhân nhượng. Lẽ
ra, phải dùng "sai hoàn toàn". Sau 1975, Viên Linh có Thủy Mộ
Quan, Thanh Nam có Ðất Khách, Lê tất Ðiều có Thơ Cao Tần,
Võ Phiến có ...nhiều bài luận nhỏ nhỏ, đếm không xiết
. Sao lại bảo họ "về hưu"!? Ngoài những tác phẩm kể trên,
họ còn viết những bài phê bình hay viết lại về những
vấn đề văn học liên quan đến chính cuộc đời họ. Một
trong những người "trước 75" viết rất xuất sắc về thể
loại này là nhà văn Lô Răng Phan Lạc Phúc. Những bài viết
của ông, phảng phất như một thứ hồi ký văn chương, nhưng
là một thứ tài liệu rất cần thiết cho chúng ta về thời
gian các nhà văn bị cầm tù ra sao, thế nào sau 1975.
Chính tài năng của họ- đã được
chứng tỏ qua nhiều năm, qua nhiều biến cố, thử thách- là
sự bảo đảm cho nền văn học "của chung", một nền văn
học không có khẩu hiệu ("chống đế quốc Mỹ") hay phí thì
giờ tìm cách hòa giải với dân tộc vốn là những người
không bao giờ là mục tiêu đòi sửa đổi của họ.
Ngoài phương diện văn chương,
sẽ không thể bỏ qua hay coi nhẹ những hoạt động mà những
nhà văn miền Nam, trong hay ngoài nước, đã làm để bảo đảm
mỗi một điều: văn chương có thể ra đi hay ở lại nhưng
phải là sự lựa chọn của chính tác giả, không phải của
nhà cầm quyền.
"Khi nhà vua biết trị nước thì
thi sĩ tự do làm thơ, kép hát tự do đóng trò, các viên thái
sử chép đúng sự thực..." Thiệu Công khuyên vua nhà Chu, Lệ
Vương, năm 845 trước Tây Lịch.
Ông Nghè về lại trong dinh
Tướng quân giữ ải thư sinh
dưới đèn
Từ Thức lại trở về Tiên
Sĩ phu giảng huấn, người hiền
bình văn...
Viên Linh, Thủy Mộ Quan, Hoa Kỳ.
1982.
Nguyễn Tà Cúc