Sắp sang một
thiên niên mới mà Việt Nam vẫn còn là một trong những quốc
gia nghèo khó nhất. Tình trạng này dĩ nhiên gây ra bởi một
chính phủ không quan tâm đê'n người dân. Suốt nhiều năm
trong khi đeo đuổi mục đích sau cùng là đưa Việt Nam hoàn
toàn vào thế giới côäng sản, người cộng sản Việt Nam
từng tự hào rằng họ đã giải phóng phụ nữ Việt Nam khỏi
sự đầy đọa của phong kiến thực dân và nay phụ nữ cũng
đứng ngang với đàn ông ở mọi lĩnh vực.
Ảo tưởng ấy
bị thực tế chứng minh một cách hết sức thảm hại: về
thể chất, phụ nữ Việt Nam càng gầy và thấp đi; về tinh
thần, số phần trăm học cao giảm sút so với số dân tăng
trưởng. Thậm chí họ còn bị cai thầu ngoại quốc hành hạ,
đánh đập, sách nhiễu tình dục...như thí dụ về hãng giày
Nike mới đây. Aáy là chưa kể đến số phụ nữ Việt Nam
bị bắt cóc bán sang Trung Hoa đang xẩy ra bây giờ.
So với tình trạng
phụ nữ nói chung- tại Việt Nam, tình trạng phụ nữ Việt
Nam ở hải ngoại ra sao? Liệu những thành công của họ về
tài chánh, học vấn...có tiếp tục bảo đảm được cội
nguồn của họ và sự giáo dục những thế hệ phụ nữ tương
lai sẽ ra sao nếu muốn giữ được cội nguồn ấy?
Trong tương lai,
Người Mới sẽ có những cuộc phỏng vấn về vấn đề này.
Ngay bây giờ, xin đăng lại những bài góp ý của một số
nhà văn, nhà cách mạng...chia xẻ cùng một mối ưu tư khi
họ trả lời cuộc Trưng Cầu Ý Kiến của báo Phụ Nữ Tân
Văn cách đây hơn bẩy mươi năm. Dù cách chúng ta hơn bẩy
thế kỷ, những nhận xét và cao kiến này đến nay xét ra
có chỗ vẫn còn sử dụng đượ?c. Bài đầu tiên, Vị Thuốc
Ðắng (tựa do Người Mới đặt), là của nhà cách mạng Huỳnh
Thúc Kháng.
Người Mới cũng
cho đăng một bài trong loạt "Nữ Trí và Dân Trí" của người
chủ trương, Nguyễn Tà Cúc. Xin các vị thức giả gâàn xa
cho chúng tôi thêm ý kiến, bất luận ngắn dài, chúng tôi
sẽ tùy tiệm mà trình bày tới độc giả.
+++++
VỊ THUỐC ÐẮNG
Huỳnh Thúc
Kháng
Tháng trước tôi
có tiếp được thơ bà hỏi ý kiến đối với vấn đề phụ
nữ thế nào, tôi chưa trả lời kịp, kế đến tờ báo Phụ
Nữ tân văn ra đời, bà có gởi tặng ba số?; tôi có giới
thiệu trên báo Tiếng Dân mà không bàn luận gì. Nay lại được
thơ bà xin trả lời cái thơ trước, tấm lòng ân cần đặc
biệt của người chủ một tờ báo mới mẻ như tờ Phụ
Nữ tân văn nầy, tôi rất lâáy làm thâm cảm, vậy tôi xin
lấy lòng thành thực đối với bạn nữ đồng nghiệp mà
thư lại cho bà rõ sở dĩ tôi không trả lời vội được,
là bởi mấy cớ sau này:
1. Về đường lý
tưởng, thì tôi vẫn nhận cái thuyết "nam nữ bình đẳng"
là hợp vớ?i nhân đạo và công lý, mà những học thuyết
cùng phong tục bên Á Ðông ta ngày xưa như "Nam tôn, nữ ty,
nam quý nữ tiện" là sai lầm; trong bài diễn văn tôi đọc
tại Nữ công học hội ở Huế năm trước có nói: "Ðàn ông
đàn bà ở trong xã hội, cũng như tay mặt tay trái ở trong
thân thể" chính là bày tỏ cái lý thuyết đó. Song thuở nay
lý tưởng cùng sự thực thường thường so le; mà không cùng
xuất hiện ra một: hoặc lý tưởng phát minh ra từ đời trước,
mà đời sau mới thấy thực hành được; hoặc lý tưởng
thì xem hoàn toàn, mà thực hành thì nhiều chỗ rất ngại,
không phải lý tưởng chân chính, không làm được mẹ đẻ
của sự thực đâu, mà chính vì những kẻ manh tùng (theo mù)
chỉ ham cái danh hão mà không xem cái tình thế, không hiểu
cái gì là hợp, cái gì là trái, điều gì nên trước, điều
gì nên sau, mà thành ra thế. Việc trong xã hội, việc gì cũng
vậy, mà vấn đề phụ nữ là một chuyện "Không nên nói
cao, nói thấp cho ngày nay có thể làm đưuợc" Tôi bình sanh
vẫn phục câu ấy, nên đối với vấn đề bà hỏi, nói thấp
e không hợp với phong thói hào huyễn hiện thời, mà nói cao
thì e không chút gì bổ ích trong việc thực tế, vì thế nên
không trả lời vội được, âáy là một.
2. Ở trên thế
giới xưa nay, Ðông tây, dầu cho dân tộc mà ngày nay cho là
văn minh bậcnhất, cái bước tiến lên con đdường tiến hóa,
sao cũng đàn ông đi trước mà đàn bà mới tiếp theo, đàn
ông có học thức, mà sau đàn bà mới có học thức, dàn onân
có quyền bảo cử, mà sau mới có đàn bà đòi tham dự chính
trị, không phải tại đàn bà hư hèn, mà bước trước, bước
sau, nhất định như thế, thử xem toàn cả thế giới có dân
tộc nào đàn ông thì trình độ đê hèn, mà đàn bà tiến
cao lên được bao giờ? Hiện ở trong xã hội ta, trong bạn
đàn ông ra thế nào? Học thức dịch duyệt, trăm bề khiếm
khuyết; danh lợi vật dụng, say đắm mọi bề; chưa nói đến
việc công ích công lợi, chỉ một cái tư cách làm người
mà còn mười phần sa sút đến tám chín. Tôi cũng là một
trong đám đàn ông đó, tìm thày chạy thuốc, lo chữa bệnh
của bạn mày râu, mà chưa thấy chút hiệu quả gì, nay lại
giương mày trợn mắt mà trách vọng vào đám quần thoa, không
phải một điều đáng thẹn sao? Vì thế nên thấy và nghe
trong bạn chị em có ai đề xướng ra việc gì, tổ chức được
chuyện gì, cũng lấy làm mừng thầm, không bàn lang đến,
ấy là hai.
3. Nữ giới nước
ta, xưa nay là một cái xã hội không học, từ ngọc triều
Âu hóa tràn vào, mà trong nước có trường nữ học, lần
lần học trường Y viện; bọn nữ lưu có người ra giúp việc;
cho đến báo chương tạp chí; trên đàn ngôn luận, cũng đã
thấy danh hiệu những bạn văn sĩ không râu. Kể theo lịch
sử phụ nữ nước ta, không khác gì mở cái màn hắc ám thuở
nay mà trông thấy bóng sáng trong trời đất, thật là môä
điều đáng mừng cho chị em, ai là người hữu tâm lại không
cảm kích. Song tôi sở dĩ không dám bàn phiếm, là không muốn
đem cái thói hư "làm ít nói nhiêàu" của bạn đàn ông chúng
tôi, mà làm hư lây đến một cái xã hội mới mẻ trẻ trung
của chị em, vì ba chữ "cổ động hão". Trên ba mươi năm
nay chính những công của bạn đàn ông mà con mắt tôi cũng
thấy rõ ràng, thì nhờ cổ động hão mà trồi lên, lại cũng
vì cổ động hão mà sụt xuống; mưa dội không khi nào trọn
ngày, mà lửa rơm thường hay lụn sớm. Hội nọ cuộc kia,
rầm rầm rột rột, mà rút cục không ai nhớ tới tên, vì
thế nên nhũng điều kinh nghiệm trong đám đàn ông, nó buộc
tôi phải kiên trì một cái chủ kiến "không cổ động hão".
Tức như Nữ công học hội Huế thành lập đã gần ba năm
nay, hội Ðà Thành nữ công (Tourane) cũng mới thành lập, nay
mai Phụ nữ tùng san ở Huế cũng sắp xuất bản, mà có hỏi
điều gì, tôi chỉ nói một vài câu, thực sự chưa dám bày
tỏ ý kiến gì cả. Theo cái lương tâm tôi, thà là mang cái
tiếng chị em trách rằng lãnh đạ?m, hơn là vỗ vai cười
ngọt, không đau mà rên, là cho công việc ích chung xứ ta,
cứ đeo một cái danh hiệu suông, ấy là ba.
Ðó mấy cớ nói
trên, nó buộc tôi phải trả lòi chậm trễ là thế. Còn nói
về thiển kiến của tôi đối với vấn đề phụ nữ ta,
thi tôi cho là ông Phan Văn Trường đã đăng trên quý báo số
hai là rõ ràng thiết thực. Tôi xin phụ thêm một câu:"biết
bịnh tức là thuôác". Ở cái xã hội mới cũ dở dang như
xã hội ta ngày nay, thêm một điều lợi, không bằng trừ
một điều hại, việc gì cũng thế, mà về phương diện phụ
nữ, lại càng cần thiết. Nay bà đã có lòng khẳng khái,
tổ chức một cái cơ quan mới để thức nữ đồng bào ta
trong cơn mê mộng, thì nên trước tựu chỗ thói hư nết xấu,
sự lầm điều dở mà tìm cách đào gốc lấp nguồn; rồi
sẽ đem gương tốt Âu, Mỹ mà lần lần chỉ dẫn, thì thực
tế mới có trước lạc mà không sa vào nơi trống không. Nếu
không như vậy, ruộng đầy những cỏ, thì giống tốt cũng
không chỗ mọc lên, ao chứa những bùn, thì nước trong cũng
hóa ra đục. Bình quyền bình đẳng, nhân quyền xã hội, rao
rầm trên mặt giấy cùng đầu miệng, mà nếp cần kiệm tiết
hạnh, một ngày một tiêu mòn, cái phong khí dâm dật kiêu
sa, thương luân bại lý, mỗi ngày mỗi xuất hiện, thì tiền
đồ xã hội ta có ích lợi gì không?
Mấy lời ngay thực,
gọi là cung một vị thuốc đắng trong làng nữ giới, xin
bà lượng xét. Sau này xin chúc quý báo phát đạt và trường
thọ.
HUỲNH THÚC
KHÁNG, Phụ Nữ Tân Văn, số 9, ngày 27-6-1929 .
+++++
DÂN TRÍ VÀ NỮ
TRÍ: VẤN ÐỀ GIÁO DỤC
Nguyễn Tà
Cúc
Giáo dục phụ nữ
chưa bao giờ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà cầm
quyêàn. Chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo và những
điều luật cấm kỵ phát sinh bởi sự áp dụng cực đoan
của Nho học nhắm duy trì quân quyền và phụ quyền, phụ
nữ cho tới mãi thế kỷ gần đây mới bắt đầu được
vào trường và lục tục tham dự vào các ngành chuyên môn.
Nhưng số này vẫn chưa đủ đại diện cho phụ nữ. Nói chung,
phụ nữ Việt Nam vẫn còn phải đương đâàu với những
khó khăn về kinh tế trong một quốc gia vẫn còn chậm tiêán,
bởi thế vấn đề giáo dục vẫn bị đẩy lùi vào hạng
thứ không câáp bách phải giải quyết. Còn số phụ nữ ít
oi sinh sống tại ngoại quốc sau biến cố chính trị năm 1975
được may mắn hơn là có đủ phương tiện và hoàn cảnh
để học bất cứ ngành nào mà họ muốn (và con gái họ cũng
thế) nhưng nêu có giáo dục đầy đủ ở học đường, những
thế hệ phụ nữ đầu tiên ở ngoại quốc này sẽ dựa trên
những căn bản nào để giáo dục con gái ở nhà để một
đằng vẫn tiến bộ, đằng khác vẫn giữ được tinh thần
đặc biệt của dân tộc biểu hiệu qua Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Bùi Thị Xuân...những Nguyêãn Thị Lộ, Ðoàn Thị Ðiểm,
Hồ Xuân Hương...
Nhưng nếu vấn
đề giáo dục phụ nữ không là mối quan tâm hàng đầu hay
mối quan tâm chút nào của giới cầm quyền, đó vẫn là một
vấn đề làm bận tâm những nhà giáo dục, người trí thức,
nhà văn và chính phụ nữ nữa. Trong baiø này, tạm không bàn
đến chương trình và cách thức giáo dục ở học đường,
trừ nhận xét chung rằng phụ nữ nay có cùng cơ hội với
nam giới để lựa chọn và theo đuổi những ngành chuyên môn
mà họ muốn từ nghệ thuật đến khoa học.
Vì chú tâm vào
bản sắc đặc biệt của phụ nữ Việt, người viêát sẽ
hạn chế vào môi trường văn hóa và cả những lề thói ảnh
hưởng sâu xa đến sự giáo dục phụ nữ trong gia đình nơi
đóng vai trò rất lớn trong việc hoàn tất giáo dục ở học
đường và sự tự học để sưả soạn thêm cho những hoạt
động ngoài xã hội.
ß SỰ GIÁO DỤC
TRONG GIA ÐÌNH.
''...trên ba mươi
năm nay,...mà con mắt tôi cũng thấy rõ ràng, thì nhờ cổ
động hão mà trồi lên, lại cũng vì cổ động hão mà sụt
xuống; mưa dội không khi nào trọn ngày, mà lửa rơm thường
hay lụn sớm. Hội nọ cuộc kia, rầm rầm rột rột, mà rút
cục không ai nhớ đến tên, vì thế...nó buộc tôi phaiû kiên
trì một cái chủ kiến 'không cổ động hão'...Bình quyền
bình đẳng, nhân quyền xã hội, rao rầm trên mặt giấy cùng
đâàu miệng, mà nê` nếp cần kiệm, tiết hạnh, một ngày
một tiêu mòn, cái phong khí dâm dật kiêu sa, thương luân bại
lý mỗi ngày mỗi xuất hiện, thì tiền đồ xã hội ta có
ích lợi gì không? (Nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng, Trả
Lòi Cuộc Trưng Cầu Ý Kiến Về Vấn Ðề Phụ Nữ, Phụ Nữ
Tân Văn, số 9, ngày 27. 6. 1929)
Từ khi Việt Nam
bắt đầu thu nhập văn minh và văn chương Âu Châu trong vài
thế kỷ gần đây, sự giải phóng phu ï nữ khỏi những tập
tục lạc hậu để họ tự do gia nhập vào các lãnh vực chỉ
dành cho nam giới không khỏi dẫn tới sự lo ngại rằng họ
sẽ từ bỏ luôn cả những giá trị đạo đức cổ truyê`n.
Cũng có những tác giả như Nhất Linh trong Ðoạn Tuyệt đã
cổ võ cho một sự hoàn toàn cắt đứt giữa Ðông và Tây,
giữa mới và cũ vì quan niê.m rằng cái "cũ" của Việt Nam
hoàn toàn không có gì cứu vớt được, chỉ tuyền những
hủ tục phải diệt trừ tận gốc, dù cái gốc ấy nuôi dưỡng
cho cả một nền văn hóa Việt. Càng hấp thụ những trào
lưu tư tưởng và triết học mới, càng được giới thiệu
những hệ thống văn minh khác, người ta càng dễ bỏ quên
hay có khái niệm sai lầm về những giá trị đạo đức cổ
truyền cũng như đánh thấp sự tiến bộ của chính mình.
Riêng về vấn đề phụ nữ, Việt Nam là một nước khá tiến
bộ, căn cứ trên hình luật. Ðiều này rất quan trọng vì
chứng tỏ rằng phụ nữ Việt Nam được sinh hoạt từ lâu
trong một môi trường tương đối tự do và trong một tinh
thần tương đối rôäng rãi hơn là phụ nữ ở những quốc
gia khác. Sự tự do và rôäng rãi này chắc chắn ảnh hưởng
tới sự giáo dục trong gia đình.
I- Ðịa Vị
Phụ Nữ Trong Các Bộ Luật Chính.
Trong các bộ luật
cũ thì có quyển Hình Thư , đời vua Lý Thái Tôn; bộ Quốc
Triê`u Hình Luâ.t, đời vua Trần Thái Tôn; luật Hồng Ðức,
đời vua Lê Thánh Tôn và bộ Hoàng Triều Luật Lệ, đời
các vua nhà Nguyễn. Trong cacù bộ luật này, bộ Hồng Ðức
vẫn được xem là môt bộ luật sáng suốt, quy mô và thuần
Việt Nam nhất dù có dựa đôi chút vào luật nhà Tùy và Ðường
của Trung Hoa. Ðáng tiê'c rằng sau đó, vua Gia Long lại sao
chép luật nhà Thanh mà thảo bộ luật mới nên quyền lợi
và địa vị của phụ nũ cũng theo đó bị suy giảm đi. Không
so riêng gì với luật Trung Hoa mà ngay cả với luật tại Hoa
Kỳ bây giờ ở vài trường hợp, bộ luật Hồng Ðức vẫn
có phần nhân đạo và hợp lý hơn.
A/ Sự bình quyền
trong hôn nhân và thừa kế tài sản.
Ngay từ thế kỷ
thứ XV khi bộ luật Hồng Ðức được áp dụng, phụ nữ
Việt Nam đã đứng ngang hàng với nam giói về hai phương diện
trọng yế?u nhất : tài sản (gồm cả bất động sản) và
hôn nhân.
a/ Tài Sản: Theo
luật Hồng Ðức, con gái cũng có quyền thừa hưởng tài sản
của cha mẹ như và bằng con trai:
-...Theo luật nhà
Lê, di chúc bằng văn tự hoặc lời nói của cha mẹ phải
được tuân theo miễn làsự phân chia tài sản cho các con trai
và gái được công bằng... Sách Hồng Ðức Thiện Chính Thư,
nói rõ về việc phân chia của thừa kế một cách đồng đều
này (bằng cách) không phân biệt con trai và con gái và cho thấy
là hai bên được đối xử đồng đều như nhau. Càng rõ ràng
hơn, điều 269 của sách này bàn về quyền từ con của cha
mẹ với những nguòi con hư hỏng, có nhắc rõ ràng về "sự
phân chia tài sản giũa con trai và con gái"...
(...Under the Le the
parent's oral will or testement was to be respected provided that the distribution
of their estate among the male and female children was not groundlessly
unjust. Hong Duc Thien Chinh Thu, elaborating on this point of equal distribution
of the inheritance, did not make a distinction between sons and daughters
and apparently treated them equally. Even more explicity of this document,
with the parent's right to disown a child who repeatedly misbehaved, mentioned
''the partition of the estate among sons and daughters.'') (1)
Nếu gia đình không
có con trai, người con gái (trưởng) cũng có quyền (giữ một
phần hai mươi của toàn bộ tài sản, ngoài phần của mình)
để lo việc cúng kiếng, hương hỏa. Trong viêäc thừa tự,
người con gái được xếp hàng thứ hai ngay sau con trai, trước
con (trai) nuôi. Người em gái cùng mẹ khác cha có quyền thừa
hưởng của hương hỏa để cúng giỗ mẹ (thay vì người
anh trai, con của người chồng trước) (2)
Những tài sản
được thừa hưởng này thuộc về quyền người con gái và
được giữ làm của riêng sau khi lấy chồng. Trong truờng
hợp chồng chết, theo điêàu 377 luâät nhà Lê, người vợ
dù lấy chôàng khác vẫn được toàn quyền diều hành tài
sản do ngươiø chồng để lại cho các con và còn có thể
bán những tài sản này đi nếu được gia đình chôàng và
nhà chức trách sở ta.i cho phép (3).
Nếu không có con,
người vợ được quyền giữ phần tài sản riêng mình trước
khi lâáy chồng, hơn nửa tài sản mà hai nguòi gây dựng đuọc
trong khi lấy nhau (tân tạo điền sản) và phần lớn hoa lợi
của số điền sản mà sau này sẽ trả về cho nhà chồng
sau khi người vợ chết. Luật nhà Lê như thế rõ ràng công
bằng hơn cả luật Anh quốc và được sử dụng bởi Hoa Kỳ
cả ba thế kỷ sau(4):
-...Người chôàng
qua hôn nhân, chiếm hữu mọi tài sản mà người vợ làm chủ
khi lấy nhau...Những tài sản này, bởi sự? kết hôn, trở
thanøn tài sản cuả ông ta ...và những tài sản này sẽ không
bao giờ còn thuộc về người vợ nữa ...nếu như người
chồng không cho phép, và trong trường hợp ông ta qua đời
thì tài sản này sẽ không trả lại người vợ mà thuộc
về người điều hành vấn đề thừa kế của ông ta..."
( The husband, by
marriage, acquires an absolute title to all the personal property of the
wife, which she had in possesion at the time of marriage... These, by marriage,
become his property ... and such prpoerty can never again belong to his
wife... unless it be given to her by his will; and in case of death of
the husband, this property does not return to the wife, but vests in his
executer...-Tapping Reeve, Law of Baron and Femme, 1816)
Những quyền này
bị hủy bỏ một thời gian trong thời nhà Nguyễn nhưng sau
đó đã đuọc tái ban hành bởi nhà cầm quyền Pháp và sau
này bởi chính phủ Miền Nam là nơi mà nữ quyền được tôn
trọng hơn, giản dị chỉ vì luật nhà Lê hợp với cách sinh
hoạt và phong tục, văn hóa của dân Việt hơn. Thí dụ như
người chồng không thể bán điêàn sản hay tài sản của
người vợ mà không có sự bằng lòng và chữ ký của người
vợ. Trong hâàu hết các sự mua bán điền sản, chữ ký của
người vợ đặt song song vơiù chữ ký của ngườøi chồng.
Trong khi ấy, luật Pháp coi người chồng như một thứ "chủ
nhân" của người vợ và được quyền đơn phương cho mướn,
mua hay bán mọi tài sản, dù là của riêng của người vợ
(5).
b/Hôn Nhân: Xã hội
Việt Nam đặt nặng vấn đề gia đình nhưng không phải vì
thế mà xử ép người đàn bànhư Trung Hoa. Luật nhà Lê cho
phép người đàn bà được ly dị. "Phàm chồng bỏ lửng vợ
(chính) mà năm tháng không đi lại thì mất vợ (vợ phải
trình với quan sở tại và có xã quan làm chứng). Nếu vợ
đã có con thì hạn cho một năm. Nếu chôàng vì việc quan
phải đi xa thì không theo luật này(1aa).
Cũng người chồng
ấy, sau khi bỏ rơi vợ, vợ lâ'y chồng khác mà tự chuyên,
bắt bớ người chồng mới của vợ mình thi sẽ bị giáng
chức (6).
Ðiều 308 như đã
dẫn trên dùng chữ "sơ thê" (bỏ phế) và "bất vãng lai" (không
thăm viếng) để chỉ những hành động này, nghĩa là cho phép
người vợ được bỏ chồng nếu hai bên không có quan hệ
tình dục, nghĩa là người chồng không thể vì yêu đắm vợ
thứ hay thê thiếp mà (có quyền) giữ vợ (chính). Ðiều này
cũng xác quyết rằng người chồng không thể nại những cớ
như đi buôn hoặc thăm viếng thân nhân đau ốm ở xa mà xao
lãng bổn phận với vợ con. Không những thế, con rể mà chửi
rủa cha mẹ vợ mà không có lý do chính đáng thì người vợ
cũng có thể báo lên quan để ly dị (điều 333, luật nhà
Lê).
Qua các đạo luật
khác, luật nhà Lê còn bảo vệ phụ nữ khỏi sự ruồng bỏ
của người chồng hay hà hiếp của quan chức sở tại hoặc
ở trườnghợp đàn bà góa, sự hà hiếp của gia đình chồng.
Luật nhà Lê còn đi rất xa hơn nữa trong việc bảo vệ người
con gái còn vị thành niên. Luật nhà Lê cấm mua hầu gái dưới
15 tuổi (tức là tuôåi được xem như truởng thành). Nếu
bắt được, những cô gái này sẽ được thả và nhữõng
kẻ mua bán và làm chứng cho sự mua bán cô ta sẽ bị trừng
trị nặng nề bằng cách bị nọc ra đánh. Trong vấn đề
cưỡng hiếp trẻ em, điều 404 quy định rõ ràng rằng "giao
hợp với một ngườii con gái mười hai hay kém hơn, dù với
sự bằng lòng của cô ta, sẽ bị trừng trị như phạm tội
cưỡng hiếp" (6). So sánh với luật Hoa Kỳ hiện nay, theo luật
sư Nguyễn Quốc Lân, luật nhà Lê không phân biệt cỡ tuổi
để thẩm định viêc cưỡng hiếp :theo luật Hoa Kỳ thì bị
kết tội nếu cô bé "bằng hay dưới 10 tuổi" hay ""trên 10
tuổi nhưng dưới 16 tuổi và người con trai hay đàn ông phạm
tội phải lớn hơn ít nhất là bốn tuổi" . Và luật nhà
Lê cũng không xét đến việc người con gái có bằng lòng
hay không: việc có bằng lòng hay không không được xét tới
trong khi luận tội (...the girl's consent or lack of consent is irrelevant
to the dertermination of culpability...-Nguyễn Quốc Lân).
II- Bốn Ðiều
Ðức Lý Của Phụ Nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Sự khác biệt giữa
luật nhà Lê và luật Trung hoa, luật Pháp, luật Hoa Kỳ...như
đã dẫn, chứng tỏ dân Việt ngay từ nhiều thế kỷ trước
đã có tinh thần độc lập và cấp tiến. Tinh thần ấy cũng
như đã nói là phản ảnh cả nêáp sống của một dân tộc
trong gia đình, làng xóm. Khi nguời phụ nữ được bảo vệ
rõ ràng bởi luật pháp và có vị trí quan trọng được công
nhận thì dĩ nhiên trong gia đình họ cũng được hưởng sự
đối xử tương tự. Thế thì sao lại có sự đòi "đoạn
tuyệt", thế sao laiï có sự suy thoái hoặc chậm tiê'bộ của
người đàn bà Việt? Sự giáo dục trong gia đình vẫn dựa
trên cái quan niệm "công dung ngôn hạnh" dùng để tả và cũng
là thước đo một người phụ nữ đến nay được xem là
cũ, nhưng trong khi chờ đợi một sáng kiến nào mới mẻ và
toàn vẹn hơn, nay hãy trở lại vói những mẫu mực này để
xem điêàu gì quả thật là tinh túy đáng giữ, điều gì lạc
hậu cần đào thải và điều gì cần thêm vào cho hợp với
tâm tính và thời buổi mới.
-Công: Khéo léo
trong sinh hoạt cụ thể như thêu thùa, tầm tang, bếp núc (1a)
Cho đến nay, việc
bếp núc may vá ... vẫn còn được xem là của phụ nữ. Nhưng
tại sao lại có sự? trái ngược là những người nấu bếp
giỏi, những nhà vẽ kiểu mẫu quần áo nổi tiếng trên thế
giới lại là đàn ông? Có lẽ những người đàn ông này
thành công vì họ coi đó là một thú vui và không ngại đi
ngược lại cái thành kiến rằng việc "thủ công" này chỉ
cuả đàn bà. Sự may vá, nấu nướng không những là câàn
thiết mà còn nên coi như một sự sáng tạo, không chỉ là
một sự lập lại. Thêu thùa cũng là một thứ nghệ thuật:
các bảo tàng viện của Trung Hoa và Ðài Loan hiện trưng bày
những bức thêu tay của các gia đình quý tộc Trung Hoa, tuyệt
xảo không khác gì tranh vẽ. Nhiều bức thêu này pha trôän
cả nét vẽ (bằng sơn hay baàu7857?ng mực) và có khi có thủ
bút của các danh gia thơiø bấy giờ. Nhưng nếu người nào
không có khiếu hoặc muốn dành thì giờ vào những việc mà
họ yêu mến hơn thì không nên ràng buộc họ vào chỉ những
công việc này mà nên mở rộng ra cho tất cả những hoạt
đôäng tương tự cần sự chăm chỉ cuả bàn tay con người
nhắm đem lại sự thoải mái, tô điểm cho đời sống được
đầy đặn hơn: sửa sang các dụ?ng cụ trong nhà...
-Dung: dáng vẻ
nhu mì, cử chỉ đoan trang, mặt mày nghiêm chỉnh. Hiền thục
ngay thẳng khiến người mến mà trọng(2a)
Ðây là một trong
điều bị hiểu lầm nhiều nhâát trong bôán điều đạo lý
làm người của đàn bà (tứ đức) Vì dung có nghĩa là "mặt"
và mặt một người đàn bà (đẹp) vẫn đuợc ví với hoa
(Vân tưởng y thường hoa tưởng dung- Lý Bạch) nên chúng ta
vẫn hay cho rằng dung ở đàn bà chỉ sắc đẹp. Nhưng chắc
chắn không phải thế. Dung là biểu tuợng của một người
biết tự kềm chế tình cảm của mình, dù vui hay buồn, là
những thái cực của tình cảm. Có thể ví dung là một mặt
hồ lúc nào cũung giữ được phẳng lặng, dù có những đợt
sóng ngầm quẫy mạnh bên dưới. Ðè nén được tình cảm
nhất thời là bước đâ`u tiên để trau mình, để khỏi hành
đôäng hấp tấp, gây những hậu quả không lường về sau
cho chính mình và người thân cuả mình. Dung cũng là cái gương
phản chiếu tâm hồn một ngườiø, bỏi thế không thể chỉ
chú trọng trau chuốt "làn thu thủy, nét xuân sơn" mà để
mặc cho tâm hồn chết vữa vì sớm hay muộn, bộ mặt cũng
sẽ bày ra cái chết của phần tâm linh. Phần bên trong ấy
mới là phần hết sức gợi cảm ở những người đàn bà
có một đời sống nội tâm phong phú, là sự? quyến rũ kỳ
ảo của họ. Khi đã chỉ biết trông vào nhan sắc, lập tức
khi có biến phải than rằng "Tạo vật đố hồng nhan" (Tạo
hóa hay ghen với người dàn bà đẹp) mà Nguyễn Du diễn tả
hê't sức thành công trong "Trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen". Ngoài ra không biết chống đỡ xoay sở bằng chính sức
mình . Thiển ý, "má hồng" sở dĩ bị trời "đánh ghen" vì
ngoài "má hồng" ra, người đàn bà ấy không đuực giáo dục
và tự giáo dục để có bản lãnh tài năng mà tự chế và
xử sự cho khôn ngoan, phải lý hơn. Khi đã chỉ trông cậy
hoặc chỉ sở hữu vào một điều kiện chỉ có tính cách
nhất thời, phù phiếm (nhan sắc) dĩ nhiên khi có sóng gió
ba đào thì không thể đương đầu được (31:30 Duyên là giả
dối, sắc lại hư không- Sách Châm Ngôn, bản dịch Kinh Thánh
Tin Lành ).
-Ngôn: nói năng
tế nhị, thông minh, thanh nhã, dịu dàng mà quả quyết. (3a)
Trong các tội "thất
xuất", nghĩa là bẩy điều mà đàn bà phạm phải thì chồng
có quyền bỏ, nhà Nguyễn có điều thứ bốn là "Ða Ngôn"
(lắm lời, lắm điều). Như thế phải chăng đàn ông có quyền
"đa ngôn" mà không bị vợ bỏ?! Nhưng điều luật này cho
thấy dân tộc Việt rất chăm chú vào cách nói năng của đàn
bà. Trong bài ca dao "Mười Thương", đức ăn nói được đặt
ngay vào hàng thứ hai (Hai thương ăn nói mặn mà có duyên).
Nhà thơ Trầøn Lam Giang dùng một chữ rất đáng chú ý trong
định nghĩa trên, là "quả quyết". Ngươiø đàn bà không chỉ
dịu dàng mà còn cần quả quyết. Sự quả quyết âáy là
điều kiện rất cần thiết sau này khi người phụ nữ có
chức quyền trong xã hội. Những nghiên cứu mới nhất cho
thấy giọng nói (và"ngôn ngữ của điệu bộ thân hình " body
language) của một người là kim chỉ cho thấy người ấy tự
tin hoặc lúng túng, lịch lãm hay vẫn còn non nớt, quen sử
dụng quyền hành, phần vụ mình hay chưa . Căn cứ trên kết
quả của những cuộc nghiên cứu này mà các công ty lớn cũng
đã mướn người huấn luyện nhân viên ( nhất là những nhân
viên cao cấp) để học cách nói cho thích ứng với phần vụ,
trách nhiệm cuả mỗi người. Nhất là ở phụ nữ, khi xã
hội và cả chính họ nữa, vẫn còn chưa quen với sự phụ
nữ nay nắm giữ những chức vụ quan trọng. Trong cách cấu
trúc gia đình cổ điển của dân Việt, khi người đàn bà
không những ngang hàng với người đàn ông (như dẫn qua những
bộ luật bàn đến ở trên) mà còn là "nội tướng", nắm
hết tiền bạc và chi thu trong gia đình, sự "quả quyết" này
rõ ràng là cần thiết để không ai có thể đặt dấu hỏ?i
về những quyết định của họ.
Phan Khôi trong bài
viết bàn về ""Kiểm Thảo về Ðại Danh Tự" có nhắc sơ
đêán chữ "em" mà phụ nữ vẫn dùng và hết sức đả phá
trong trường hợp này:
- Ðàn bà sao lại
xưng em trước mặt đàn ông? Xưng em, chỉ có vợ xưng với
chồng; ngoài ra, cô đào xưng với quan viên, nhà thổ xưng
với làng chơi, mỗi đằng có ý nghĩa riêng của nó. Còn bất
cứ một người đàn bà nào đối với bất cứ một hay nhiều
người đàn ông nào, việc gì lại phải xưng như thế? Xưng
như thế chỉ để mà thú nhận rằng mình là yếu đuối thấp
kém, đành một phận làm người dưới kẻ bé, không dám nói
chuyện bình quyền bình đẳng với các anh đó thôi...
(Kiểm Thảo Về
Ðại Danh Từ, Phan Khôi, đăng lại trên Hợp Lưu số 33, tháng
2&3. 97)
Bài này Phan Khôi
viết cách đây khoảng sáu mươi năm nên không còn đúng với
tình trạng ngày nay nữa. Riêng ở miền Bắc và sau này khi
người Bắc di cư vào Nam, phụ nữ Bắc vẫn xưng "tôi" (chứ
không là "em") với những người đàn ông mà họ không thân
thiêát hoặc mới gặp lần đầu. Rồi tùy theo tuổi của
người đàn ông mà gọi họ là "ông" (lớn tuổi hơn) hay "em"
(nhỏ tuổi hơn). Sự xưng hô như thế lập tức tránh được
sự suồng sã của những người đàn ông kém hiểu biêát
mà vẫn giữ được sự lịch sự với những người đàn
ông đứng đắn. Tưởng đây là một tục tốt mà nên tiếp
tục duy trì.
-Hạnh: Hiếu
đễ, thủy chung, giữ gìn ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ trí,
tín) với phong thái hiền hòa, đằm thắm (4b).
Hạnh tuy xuâát
hiện rốt cùng như ng lại quan trọng nhất: người không có
"hạnh" thì không thể giữ được ba đức trên. Nhưng hạnh
cũng không thể chỉ giới hạn vào những điều răn dành chung
cho con người. Vì phụ nữ sẽ lại nắm vai trò giáo dục
con cái nên có một điều xưa nay vẫn chưua thấy được đề
cập hay chú trọng đến: đó là cái "hạnh" với ngươiø ngoài
gia đình, với nhân quần và tập thể mà chúng ta là môät
phần tử. Làm vợ đảm, mẹ hiền là điều tốt nhưng tinh
thần tốt đẹp ấy còn phải phổ biến ra ngoài xã hội.
Phụ nữ nước Nam ít làm được việc lớn cũng chỉ vì quá
quan trọng tới cái "hạnh" trong nhà mà quên rằng phải sửa
soạn sao cho thích ứng với cái gia đình còn lớn hơn nữa:
tôi muốn nói đến phần "giáo dục công dân", nghĩa là cái
"hạnh" ngoài xã hội, nghĩa là lòng yêu con, yêu chồng, yêu
cha mẹ, anh em rộng lớn thế nào thì lòng yêu người cùng
môät cộng đồng, một nước cũng phải tương tự, dù dưới
một hình thức khác và dĩ nhiên, không thể là cùng một thứ
tình riêng tư như vậy. Nguyễn Trãi không nhầm lẫn chút nào
khi từ thế kỷ XV đã khuyên con gái đàn bà trong Gia Huấn
Ca:
Thấy người
đói rét thì thương
Rét thường
cho mặc, đói thường cho ăn.
Người ở đây
rõ ràng không chỉ hạn chế vào người thân trong nhà. Cũng
không cần đợi phải đến khi sang giàu nứt đố đổ vách
như Thạch Sùng mới có thểù cho mặc, cho ăn. Gia đình không
thể hưng vượng trên sự nghèo đói, thất thoát của xã hội.
Sở dĩ có những người nhũng lạm quyền chồng để mua quan
bán tước (hay bất cứ sản vật nào ra tiêàn), ỷ thế chồng
mà hống hách với dân đen con đỏ; có những người ra phố
xả rác; có những công chức chỉ hăm hở toan tính sao cho
có một chỗ ngồi cao hơn để hòng chuyện "đục nước béo
cò"; có những nhà văn dùng thì giờ ở sở để "viết trộm";
có nhũng người hở tý của công thì khuân về nhà mà nâåy
không ra một hạt gạo trong xó bếp để cứu tế làm phúc...là
vì họ không thấy quá được cái ngưỡng cửa gia đình, họ
không bao giờ đặt vấn đề rằng muôn người cũng làm như
họ thì của cải tài sản quốc gia thất thoát, thành phố
chỉ là một bãi rác khô?ng lồ, năng suất phát triển của
quốc gia suy kém. Chưa kể, còn cái nạn nhũng nhiễu, cường
hào ác bá khiến những người dân khố rách áo ôm có việc
đến cử?a công phải chầu chực chờ đợi khốn đốn vì
thì giờ thay vì dành cho họ đã được dùng vào việc chè
tàu thuốc lá , đàn đúm tán nhảm hay tệ hại hơn, "tốt
lễ dễ nói".
Ra đến ngoại quốc,
những thói hư tật xâáu tập thể này vẫn còn rớt lại
: những cuộc lường gạt các công ty bảo hiểm từ xe cộ
đến y tế của những người mệnh danh là trí thức hay không
trí thức. Hạ giá cho phụ nữ hơn là những cuôäc lường
gạt những cơ quan xã hội, bảo hiểm này phần lớn laiï
do phụ nữ tổ chức và tham dự để thay đổi bộ mặt, hình
vóc...là những giá trị? hết sức bề ngoài; những bãi đậu
xe đầy rác rưởi; những quán ăn với những chiếc ghế cọc
cạch, bẩn thỉu với những phòng vệ sinh chung hết sức dơ
dáy... Cái tinh thần hết sức ích kỷ chỉ biết lấy đi mà
không biết cho lại, cái thiêáu sót của phâàn phẩm hạnh
với xã hô.i ấy mà bắt đâàu đi từ phụ nữ phải chấm
dứt, phải được bổ khuyết nếu muốn dân mạnh nước cường,
nêáu muốn cộng đồng mà chúng ta sinh sống trong đó tiến
bộ hơn.
TỰ GIÁO DỤC
...Nói tóm lại
thời chỉ có một câu: tự mình chị em giáo dục lấy chị
em. Oùc khôn ta là thầy, chí khí ta là thợ, tay chân phách
lục ta là bộ ngũ quân lính, có gánh gì ta cất chẳng nổi,
có quyền gì ta tranh chẳng hơn?...Nếu chị em ta, không trước
để lòng về chức nghiệp, mà chỉ cứ trau son dồi phấn,
cợt liễu cười hoa, mái tóc cho bóng, móng tay cho dài, lấy
cô đốc bà tham làm mô phạm , thời những bao nhiêu câu nữ
quyền, câu giá trị đều là nói khoác mà thôi...(Nhà cách
mạng Phan Sào Nam, Trả Lời Cuộc Phỏng Vấn Về Vấn Ðề
Phụ Nữ, Phụ Nũ Tân Văn, số 10, ngày 4.7. 1929)
Sau khi đã ra khỏi
học đường, sau khi đã không còn sống chung với gia đình,
phụ nữ cũng cần học nữa. Sự học là một dòng nước,
chảy hoài không ngưng nghỉ. Sự học không chỉ là mảnh bằng,
mảnh bằ?ng chỉ là sự khởi đầu của môt cuộc tìm kiếm,
thu nhận, chỉ kết thúc khi qua đời. Không có nghề nghiệp
nào -nhâ't là nghề viết- mà tiến xa được nếu không có
kiêán thức sâu xa thu nhập được từ cái nguồn đông tây
kim cổ. Sự tự giáo dục âáy còn là áp dụng những kiến
thức hocï hỏi được vào đời sống. Có học hỏi thì mới
theo được tiến bộ mới, mới uyển chuyêå n trong cách suy
nghĩ và thực hiện. Một trong những sai lầm lớn nhất của
những thế hệ trước mà nay đã bỏ đượ?c khá nhiều-
là kềm giữ người đàn bà và rồi họ cũng vì thế mà tự
kềm giữ vào những việc quanh quẩn trong gia đình, vào những
câu đầu môi nông nổi như "trai tài gáiù sắc", "gái thời
giữ việc trong nhà":
-...Kìa con trai,
đã không muốn cho có anh hùng hào kiệt, thời những phụ
nữ, tất phải chôn hết vào đống mả ngu si, nhỏ từ việc
làng việc họ, lớn đến việc nhà việc nước triều đình,
không một tý gì kể đến con gái đàn bà; mà thường xem
con gái đàn bà chỉ là một bày gà mái, vẫn không muốn dạy
dỗ, mà cũng không cần dạy dỗ làm gì, tích lệ lâu ngày
trùng trùng điệp điệp...(Phan Sào Nam, bđd)
Sự "không kể gì
đến đàn bà con gái" ấy " khi tính việc triều đình" có
lẽ chỉ vì môt lý do đơn giản: xưa nay, những người đàn
bà có nhúng tay vào việc triều đình thường đem tới những
hậu quả khốc hại. Lại có khi chỉ vì họ tài sắc hơn
người mà mang họa lây cho ngươiø khác khi cái tài sắc ấy
bị chiếm đoạt (trường hợp Nguyêãn Trãi và Nguyễn Thị
Lộ) .
Nếu người đàn
bà càng thông minh thì càng đáng sợ, bởi lẽ người ta không
biết sự thông minh ấy có được người đàn bà sử dụng
một cách đứng đắn không khi không được gia đình và chính
họ sửa soạn, trau luyện. Sự thông minh là một ân sủng
nhưng biết sử dụng nó lại là một ân sủng khác, lớn hơn.
Khi không biết sử dụng, những người đàn bà này sẽ chỉ
là môt thứ tai hoạ cho người khác (nhiều hơn là cho chính
họ). Cũng trong nhiều thế kỷ nay, vì sự học của đàn bà
không có là bao nên tài năng của họ có lúc không đi xa hơn
là những hành đô.ng cụ thể hóa sư duyên dáng của họ trước
đám đông (con công nào không muốn khoe bộ lông của nó?).
Nghĩa là có lúc nhũng sự thông minh, những tài năng đó đúng
ra chỉ là một sự giải trí, là một thứ phụ tùng của
người đàn ông mà họ đi cạnh. Cũng lại thường thấy ,
đàn bà thường chỉ viết văn mà không làm chủ bút; thường
chỉ ngâm thơ mà không làm thơ . Dĩ nhiên cũng cần nói rõ,
rằng khi nói tới "làm thơ", người viết chỉ nói đến những
người làm thơ xứng đáng được gọi là nhà thơ. Cái trò
lạm phát "thi sĩi, nhà thơ" như chúng ta đang có tại đây-
Ba đồng một mớ nhà thơ. Chị bỏ vào lồng chị xách đi
chơi- chỉ chứng minh thêm rằng sở dĩ có sự lạm phát này,
nhất là ở phía phụ nữ, vì người ta không chú tâm đến
việc tự học để nhận ra được sự sâu kín của tâm thức
thơ đòi hỏi nhiều hơn những "lời quê chắp nhặt dông dài"
(mượn chữ Nguyễn Du). Ðó cũng là lý do giải thích sự?
kiệt quệ của một số người cầm bút phái nữ chỉ một
thời gian rất ngắn sau khi xuất hiện. Sau vài tác phẩm đầu
tay, sau khi đã tiêu xài hết vốn liếng có sẵn mà không có
gì bù đắp vào, tác phẩm mới của họ chỉ lập lại những
tác phẩm cũ, nghĩa là không có sự sáng tác. Lịch sử cho
thấy những nhà thơo nổi tiếng như Ðoàn Thị Ðiểm, Hồ
Xuân Hương, những người hay chữ như Nguyễn Thị Lộ...đều
là những người có học và phải tự học. Chính vì căn bản
"có học" rồi "tự học" nên họ có thể đứng ngang hàng
hay vượt trội cả những đồng nghiệp phái nam cùng thời
dù cái thời ấy cách đây nhiều thế kỷ khi mà phụ nữ
không được đi học cao hơn ở trường ốc.
Sự tự học còn
cho người ta cái tự tin để đảm nhận và xứng đáng đảm
nhận những viêeäc chung. Sở dĩ chủ trương "lương thê hiền
mẫu" (vợ đảm mẹ hiền) bị đả phá vì người ta cho rằng
chỗ yếu kém nhất của thuyết này là đào tạo một người
đàn bà tốt đẹp chỉ để phục vụ người khác chứ thực
ra không ích lợi gì cho họ hết. Cho nên họ không cần học
nhiều mà nhất là càng không cần tự học, nghĩa là không
sửa soạn họ để gia nhập chính quyền hay dấn thân vào
những công việc to tát. Nói một cách thực tiễn hơn, trong
vòng gia đình nhỏ hẹp mà người đàn bà càng lúc càng bị
chồng con bỏ lại về tư tưởng, về kinh nghiệm...thì làm
sao đủ can đảm góp ý, góp công với gia đình rộng lớn
hơn, là xã hội? Lợi ích thiết thực nhất của sự tiếp
tục tu bổ cho cái học của riêng mình dâãn đến cái công
việc, cái thú vui của riêng mình là họ không phải nương
cậy vào người đàn ông và việc làm, thú vui của người
ấy. Người đàn bà không thể chỉ là cái bóng lẽo đẽo
đi sau người đàn ông để mà chỉ vui cái vui , sầu cái sầu
của họ. Trời đất sinh ra mỗi người đều có một tâm
linh để nuôi dưỡng, môät bổn phận để làm tròn, môät
lý tưở?ng để theo đuổi thì không có cớ gì lại trông
câäy vào người khác. Xã hội được sự? đóng góp của
cả hai phái (nam và nữ) thì hẳn phải dồi dào, sung túc và
linh hoạt hơn.
Cho tới nay, vẫn
khó mà tưởng tượng ra một phụ nữ vừa là một "mỹ nhân"
vừa là một "danh tướng" vì hai hình ảnh âáy có vẻ tương
phản nhau. Những phụ nữ nào có cả hai điều kiện ấy vẫn
được coi là trường hợp ngoại lệ. Nhưng sẽ không có gì
tương phản, không có gì ngoại lệ nếu quan niêäm rằng "mỹ
nhân" là cái hình tướng bên ngoài mà "danh tướng" là cái
cốt tủy bên trong. Sự giáo dục phụ nữ Việt trong gia đình
nếu giữ được những giềng mối cũ thì là một căn bản
tốt đẹp để bồi đắp , gây dựng bằng tư tưởng, học
hỏi mới, không kể là xuất xứ ở Ðông hay Tây. Rồi mới
có hy vọng mà mạnh dạn nhận trách nhiêäm , kể cả trách
nhiệm lãnh đạo, nhất là khi xẩy ra chuyện hữu sự, cần
tới cả lòng sốt sắng và cái óc hiêåu biết, chứ không
chỉ cam tâm tô son điểm phấn để chinh phục chỉ một người.
Sự tô son điểm phấn của tinh thần nhờ lòng ham học, bởi
sự tự học sẽ thập phần đáng kể hơn vì may ra, có thể
chinh phục được muôn người mà làm được điều lợi ích
chung.
Nguyễn
Tà Cúc.
Chú thích:
-1,2,3,4,5,6: những
đoạn này được trích ra từ " Studies In East Asian Law- The Status
of Women in Traditional Vietnam, Ta Van Tai, Harvard Law School", "The
Vietnamese Tradition of Human Right, Ta Van Tai, Institute of East Asian
Studies, University of California, Berkeley"" và "Traditional Vietnamese
Law- The Lê Code and Modern United States Law: A Comparative Analysis,
luận án tiến sĩ, Nguyễn Quốc Lân, 1990". Tác giả xin cảm
ơn luâät sư Nguyễn Quốc Lân đã sao chép cho những tài liệu
hêát sức quý báu này và cho phép trích dẫn từ luận án
của ông.
-1aa,1a,2a,3a,4a:
Tác giả cũng cảm ơn nhà thơ Trần Lam Giang đã cho những
định nghĩa và ý kiến về công dung ngôn hạnh và sao chép
cho môt số luật nhà Lê và nhà Nguyễn từ "Dân Luật Lược
Giả?ng"" của giáo sư Vũ Văn Mẫu.
* Những tài liệu
và ý kiến này sẽ được sử dụng nhiều và rộng rãi hơn
ở một bài tới. |