Phê
bình là một ngành chuyên môn đòi hỏi nhiều hơn một tài
năng có sẵn. Khác với giới sáng tác mà tác phẩm còn có
thể được tranh luận về giá trị tùy theo quan điểm (và
họa hoằn, theo thời điểm) của người đọc, giới phê bình
không thể phạm những lỗi lầm hiển nhiên để lộ ra sự
thiếu hiểu biết về kiến thức chuyên môn. Bên cạnh một
phương pháp làm việc bắt buộc có sự chính xác còn phải
có một tài viết để chuyên chở những kết luận và kinh
nghiệm rút ra từ những tài liệu ấy. Cuối cùng, người
phê bình cần sự cảnh giác thường xuyên rằng những tài
liệu mới hơn sẽ thay đổi hay có thể đảo lộn tất cả
những nhận xét đã viết ra trước đó. Trong vòng mấy chục
năm nay, cả trong lẫn ngoài nước đều có sự ta thán về
sự yếu kém -và riêng trong nước còn kèm sự thiếu can đảm-
của ngành phê bình. Bởi thế, nhiều nhà phê bình -nhất là
trong nước- bị đẩy vào thế thụ động, là phải tự bênh
vực bằng một cách rất oái oăm là phê bình chính các đồng
nghiệp, đưa họ ra làm thí dụ để giải thích phần nào
sự thiếu tiến bộ và yếu kém ấy.
Người viết là người
trong giới, lại bị giới hạn trong khuôn khổ của một bài
báo, không có tham vọng đưa ra một quyết đoán nào, lại
càng không có chủ ý phê bình các đồng nghiệp. Nhưng hy vọng
sẽ đưa ra được một vài nhận xét thô thiển của một
người, thứ nhất ở ngoài nước, thứ hai của một người
chuyên tâm về Văn Học Miền Nam về tình trạng phê bình của
chúng ta bên này và bên kia đại dương.
I- Việt Nam, bên kia
bờ đại dương.
Khỏi cần phải nhắc
đi nhắc lại như một dĩa hát quay hoài một điệu nhạc cũ,
ai cũng đã biết ngành phê bình trong nước vẫn còn bị lệ
thuộc vào chính sách của nhà cầm quyền. Có lẽ khó có ai
phát biểu trúng vào tâm điểm của vấn đề như nhà phê
bình Lại Nguyên Ân:
- [...]Đó là sự thống
trị quá ư tuyệt đối của giọng phê bình quyền uy, của
tư duy quyền uy trong phê bình...Đôi khi vẫn có tranh cãi và
thảo luận, nhưng chỉ có những người phê phán lên tiếng,
còn người bị phê phán thì không được phép đăng ý kiến
trả lời. Bên cạnh những ý kiến quyền uy lại nẩy sinh
ra những ý kiến phê bình xu phụ, nghe ngóng xem ý kiến của
cấp trên ra sao để lựa lời viết tâng công hoặc lập công;
tạo ra một loạt những công-thức -bẫy, dùng để đánh bẫy
những ai vì nói hớ mà phạm phải những kiêng kỵ [...]Quy
kết trở thành thủ đoạn chính yếu của loại phê bình xu
phụ này; và phê bình xu phụ vừa là đầy tớ vừa là bạn
đường của phê bình quyền uy....(Lại Nguyên Ân, trích từ
Sống
với văn học cùng thời, nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội,
2003, đăng lại trên Diễn Đàn Talawas.)
Sự thống
trị quá ư tuyệt đối ấy không chỉ ở lãnh vực phê bình,
nó trùm lên mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật, không chỉ
làm thui chột mà còn có ảnh hưởng tai hại đến ngay cả
những nhà văn vốn được coi là cấp tiến và từng bị cái
quyền uy ấy làm cho vất vả. Do sự thiếu thốn tài liệu
tác phẩm thuộc Văn Học Miền Nam, nhiều nhà văn Việt Nam
không có khái niệm rõ ràng về các tác giả và quan điểm
của họ. Trong nước dĩ nhiên chưa thấy có một sự lưu ý
nào tới các tác giả thuộc Văn Học Miền Nam còn ở lại
mà ngay cả khi ra được ngoại quốc, các nhà văn được nuôi
dưỡng và thành đạt trong bầu sữa Cộng Sản cũng bị
ảnh hưởng gián tiếp bởi kiểu tư duy quyền uy này mà
có những sai lầm rất nên lưu ý:
-[…]Vừa rồi
tôi đi Mỹ là theo lời mời của Trung Tâm William Joiner thuộc
trường đại học Massachssetts Boston [...]Có lẽ đáng chú ý
hơn là chuyện này: cộng đồng người Việt và đặc biệt
các nhà văn người Việt ở bên ấy biết và hiểu như thế
nào về văn học trong nước. Tôi có chú ý tìm hiểu chuyện
này, và nhận ra một số điều khá thú vị. Phải nói rằng
trước đây (“trước đây” là bao giờ, tôi sẽ xin nói
rõ sau đây) có thể nói những bà con đó rất coi thường
và buồn về văn học trong nước. ...Nhưng từ khi có văn học
đổi mới, ...thì gần như là có sự giật mình, nghĩ lại,
nhìn lại...Nhiều người nói với tôi: Vậy ra trong nước
vẫn còn có một nền văn học...Người ta quay lại với
văn học trong nước, tin tưởng và chờ đợi. Và còn quan
trọng hơn, người (ta) quay lại không chỉ với văn học trong
nước, qua văn học người ta quay lại với đất nước. Có
cả một trào lưu muốn hòa hợp trở lại đã được nẩy
sinh từ đó. Hình như ở trong nước, chúng ta chưa hiểu hết
khía cạnh tác động tích cực này của văn học đổi mới...(Nguyên
Ngọc, Văn chương phải có văn hóa, tháng 8.2003; đăng lại
trên Diễn Đàn Talawas ngày 17.9.2003)
Trước hết, nhà văn
Nguyên Ngọc tiếp xúc với ai thì không biết nhưng có một
điểm chắc chắn: ông không tiếp xúc với đa số các nhà
văn thuộc Văn Học Miền Nam mà hiện nay không còn là bao nhiêu
người. Số nhà văn mà ông được gặp nhiều phần là các
nhà văn “made in Joiner” cho nên ông không có dịp tìm hiểu
về những người vừa là nhà văn của Miền Nam vừa đã chọn
để không sống và không hợp tác với người Cộng sản.
Với những người hay/và với những nhà văn này thì không
ai giật mình, nghĩ lại, nhìn lại...như ông tưởng.
Cụ Hoàng Văn Chí, một trong những người chống Cộng sản,
đã cho xuất bản cuốn Trăm hoa đua nở trên quê hương
cách đấy đã hơn mấy mươi năm về sự kháng cự của nhóm
Nhân Văn, Giai Phẩm trước cái tư duy quyền uy mà sau này chính
Nguyên Ngọc sẽ có kinh nghiệm trực tiếp. Khác với những
người hợp tác với Đảng Cộng sản và chỉ tỉnh ngộ khi
chính mình bị trù dập, người Việt Nam chống Cộng sản
biết dư sự đàn áp đó ngay từ đầu. Họ cũng biết dư
sự đàn áp ấy không sớm thì muộn cũng sẽ bị chống lại.
Có điều chống lại bằng cách nào và tốn bao nhiêu xương
máu mà thôi.
Nhưng cái sai
lầm lớn nhất ở đây của Nguyên Ngọc cũng như của một
số nhà văn “made in Joiner” là cái lý luận “người (ta)
quay lại không chỉ với văn học trong nước, qua văn học
người ta quay lại với đất nước. Có cả một trào lưu
muốn hòa hợp trở lại đã được nẩy sinh từ đó...”
(sđd) Người ra đi chưa bao giờ quay đi với đất nước
cả cho nên sẽ không có chuyện “quay lại”. Còn ai muốn
hòa hợp và hòa hợp với ai? Cho đến nay, may ra thì cái trào
lưu mà Nguyên Ngọc nhắc đến chỉ mới hòa hợp được với
ông và các “sứ thần văn nghệ” từ Việt Nam gửi đi tại
những trường đại học cây dài bóng cả tại ngoại quốc
nơi người ta được toàn quyền phát biểu ý kiến chứ chưa
thấy cái trào lưu nào hòa hợp được với các ông Mai Quốc
Liên, Phan Cự Đệ vv... trong các nhà tù hay các nhà tù văn
nghệ có những cái tên mỹ miều tại Việt Nam cả. Cũng
có cần đặt một câu hỏi chính thức rằng tại sao những
người như ông Nguyên Ngọc cho tới nay vẫn hạn chế sự
tiếp xúc vào với những nhà văn hoặc là đã được Mai Quốc
Liên đóng dấu bảo đảm trên trán hay không thuộc Văn Học
Miền Nam? Vì cái tư duy quyền uy ấy quyết định ngay từ
đầu (ra đi đã được dặn rằng...) hay giản dị chỉ
vì ông không có người hướng dẫn?
Vì lý do nào
chăng nữa, đó cũng là một thí dụ điển hình cho sự yếu
kém về những kiến thức phải có trong một tình trạng vẫn
còn bất an cho người cầm bút tại Việt Nam. Không có đủ
kiến thức, sẽ không thể phê bình được.
I- Ngoài nước, bên
này bờ đại dương
Cho đến nay,
xét trên những tác phẩm đã được xuất bản, chưa có một
người phê bình nào ở ngoài nước đã cung hiến được một
cái nhìn chính xác về tình hình văn chương ngoài nước và
nhất là về Văn Học Miền Nam, một thời kỳ mà chắc chắn
người trong nước hay những thế hệ sau sẽ không thể có
một cái nhìn chính xác, giản dị chỉ vì không phải là chứng
nhân tham dự hay có những quan hệ với các chứng nhân ấy
đủ để có những tài liệu chính xác mà viết.
Người đầu
tiên có tham vọng ghi lại thời kỳ ấy với một ngân khoản
tài trợ từ chính phủ Hoa Kỳ và cũng là người đầu tiên
thất bại một cách thảm hại là nhà văn Võ Phiến. Đó là
một sự thất bại hết sức bất ngờ vì ông có quá nhiều
điều kiện để ít nhất thì cũng có thể viết được một
cách tương đối thành công. Võ Phiến thất bại vì hai nguyên
do chính. Nguyên do thứ nhất, trái với sự tin tưởng của
nhiều người, Võ Phiến không có một kiến thức đầy đủ
về nền văn học này giản dị chỉ vì ông là một nhà văn
ngồi nhà hay “ăn cắp giờ trong sở” (lời chính VP) để
viết thuê cho các tạp chí. Bởi thế ông hoàn toàn không
có sự tiếp xúc rộng rãi và bao quát để phân tích sâu xa
nhất là về những nhà văn đồng thời cũng là nhà báo trong
một nền văn học mà báo chí đóng góp một cách hết sức
mạnh mẽ. Hơn thế nữa, tạp chí mà ông cộng tác chặt chẽ
lại là tờ Bách Khoa mà ai cũng dư biết từ Lê Ngộ Châu
cho tới Vũ Hạnh (ký chung với Võ Phiến dưới bút hiệu Tràng
Thiên) là những người hợp tác hay hoạt động cho Cộng sản
nên những nhận xét của ông có khi rất bất lợi cho những
nhà văn chống hay bất hợp tác với người Cộng sản (như
Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bình -Nguyên Lộc vv...) Thứ hai,
quan trọng hơn, ông không có cái vốn kiến thức tối thiểu
để luyện óc quan sát và sử dụng tài liệu. Cũng trái với
sự tin tưởng của một vài người, vốn Hán Học của ông
không có lắm mà vốn Tây học cũng không nên sự phê bình
của ông lại càng có nhiều phần dựa trên cảm tính.
Tuy thế hai
nhược điểm trên vẫn có thể chữa lại phần nào nếu ông
biết dùng chữ (Việt). Khổ cho Võ Phiến là ông lại áp dụng
cái lối viết có khi rất tủn mủn, sử dụng thứ chữ nghĩa
có khi quá bắng nhắng vẫn dùng để viết tạp bút cho nên
bộ sách về Văn Học Miền Nam của ông chỉ có giá trị như
một tài liệu để tham khảo về những tác phẩm mà ông trích
ra.
Nhắc tới
Võ Phiến đương nhiên phải nhắc đến Nguyễn Hưng Quốc,
người đồ đệ trung thành lẽ ra phải có một tương lai
đẹp đẽ hơn nếu ông đủ bản lãnh giữ được sự độc
lập và sáng suốt để chọn một con đường khác. Thay vào
đó, ông mắc vào những lỗi lầm không đáng mắc. Hai thí
dụ điển hình là vụ vu khống nhà thơ Lê Đạt (Việt Nam)
và không nghiêm chỉnh với nhà thơ Phan Nhiên Hạo (Hoa Kỳ)
qua thái độ của Hoàng Ngọc-Tuấn, người cùng chủ trương
tạp chí trên mạng Tiền Vệ. Ở cả hai vụ, ông đều bị
“trả đòn “ lịch sự nhưng đích đáng. Người viết có
cảm tưởng rằng việc ông bị đuổi ra khỏi Việt Nam mới
đây ngay khi mới xuống máy bay không hề có tính chính trị
-ông chỉ là một người dậy tiếnng Việt trong những lớp
chỉ nói tiếng Việt lại chưa hề có bài viết hay hành động
nào có thể gây thiệt hại cho người Cộng sản- mà chỉ
là một sự “dằn mặt”, một cách trừng trị công khai
về sự vu khống một nhà thơ có tiếng của Việt Nam. Chỉ
có điều trớ trêu là Nguyễn Hưng Quốc và đồng bạn của
ông lại phải học cái bài học không thể dở thói côn đồ
văn chương từ người Cộng sản. Đó là một điều đáng
tiếc vì Nguyễn Hưng Quốc có một lợi thế rõ ràng: ông
trẻ hơn, lại có dịp học hỏi những tay thầy ngoại quốc
trong lãnh vực này và khi mới bắt đầu viết, ông chưa nhiễm
nặng cái thói bắng nhắng của người thầy Võ Phiến. Nhưng
cả cái lợi thế ấy cũng gây bất lợi khi ông chỉ đọc
mà không biết áp dụng, cái kiểu “học đã sôi cơm mà chửa
chín”.
Nguyễn Hưng
Quốc không phải là người duy nhất bị “tẩu hỏa nhập
ma” khi lạc vào khu rừng ngoại quốc đầy cạm bẫy. Trường
hợp tương tự là Thụy Khuê. Nếu người phê bình Cộng sản
“hồng hơn chuyên” thì Thụy Khuê tạm được gọi là “đa
hơn chuyên”. Nếu Thụy Khuê dừng lại ở lãnh vực phỏng
vấn thì bà là người tạo được nhiều cuộc nói chuyện
độc đáo và đáng tin cậy, rất cần thiết cho văn sử sau
này. Nhưng khi sang phê bình, Thụy Khuê cũng phạm vào lỗi
lầm rất căn bản ấy của Nguyễn Hưng Quốc: không chịu
nghiên cứu đến nơi đến chốn về Văn Học Việt Nam (và
Miền Nam) đến nỗi sai những chi tiết đáng ra không thể
sai được khiến người đọc phải tức anh ách (dễ quá mà,
sao không giở sách ra mà tra?!) cho đến việc áp dụng bừa
bãi những kiến thức về văn học Tây phương vào trường
hợp Việt Nam. Hãy lấy hai thí dụ. Thí dụ thứ nhất là
câu trả lời của chính Thụy Khuê:
-[...] “Văn hóa hiện
sinh” mà tôi nói đến, là tinh thần hiện sinh, tức là tinh
thần tìm về mình. Sự tìm hiểu, mổ xẻ bản chất con người,
cách tự nhận thức về mình,...phát xuất từ triết học
hiện sinh. Tinh thần ấy tôi thấy trực tiếp bàng bạc trong
hầu hết gần 20 cuốn truyện của Dương Nghiễm Mậu mà tôi
đã đọc, cũng như trong các tác phẩm thơ văn của Thanh Tâm
Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn,
Duy Thanh, Huỳnh Phan Anh, Trần Thị NgH, vv...Hoặc gián tiếp
qua các tác phẩm của Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng,
Nguyễn Thị Thụy Vũ,...những nhà văn này đã tạo được
một dòng văn học táo bạo khi viết về mình; một cách nào
đó họ “đã” giải phóng” người phụ nữ khỏi mặc
cảm Khổng Mạnh. Có thể họ không tiếp nhận lý thuyết
hiện sinh một cách trực tiếp, nhưng họ đã gián tiếp nhận
hiện sinh trong tinh thần: nhìn nhận bản thân mình như một
hiện tượng để khảo sát, và do đó, họ đã có những nhận
xét độc đáo, đôi khi trắng trợn, tàn nhẫn, chế diễu
chính bản thân mình. Và đó là cái mới mà họ đem đến
cho văn học miền Nam trước 75...(Thụy Khuê trả lời Đoàn
Xuân Kiên và Khế Iêm, diễn đàn trên mạng Talawas)
Bùi Giáng mà “hiện
sinh” cái nỗi gì?! Khoan chưa nói tới Duy Thanh và một dây
tác giả Thụy Khuê chưng ra kế đó, hãy nói tới cái sai lầm
căn bản và trầm trọng nhất là đem ảnh hưởng-hiện-sinh
áp dụng quá cẩu thả vào trường hợp các nhà văn nữ mà
Thụy Khuê đã dẫn. Chỉ cần đọc vài tác phẩm của họ
cũng thấy ngay điều này: họ viết về mình không phải vì
đã nhìn nhận bản thân như một hiện tượng để khảo sát
mà giản dị chỉ bởi vì họ không đủ tài để vượt lên
được chính bản thân, cuộc đời chồng con họ. Có hai lý
do đưa tới kết luận chắc chắn đó. Lý do thứ nhất là
tác phẩm. Hầu như tác phẩm nào của Nhã Ca cũng có cùng
một nội dung, bố cục: những cuộc tình dang dở, những cái
chết gây ra bởi những bức thư không đến kịp vv...Còn tác
phẩm của Túy Hồng thì còn rõ hơn nữa: hoàn toàn là một
thứ nhật ký về cuộc sống vợ chồng với nhà thơ Thanh
Nam. Chính vì thế mà họ (Nhã Ca, Túy Hồng và cả Thụy Vũ
nữa) đều phạm vào một lỗi tối kỵ: có lúc đã dùng văn
chương như một vũ khí trá hình để hạ nhục tình địch
hay chính người chồng của mình. Thật là ngạc nhiên mà Thụy
Khuê không nhận ra được sự thực hiển hiện này nhất là
sau khi nhà văn Hồ Trường An (em ruột Thụy Vũ) sau 1975 đã
viết toạc ra về lý do đằng sau những “tác phẩm” đó.
Theo Hồ Trường Anh, chính Thanh Nam (nạn nhân của Túy Hồng)
đã phải khuyên Thụy Vũ ngưng viết tố khổ Tô Thùy Yên.
Lý do thứ hai lại càng chắc chắn hơn nữa: các nhà văn nữ
này đều ngưng sáng tác hoặc xuống dốc thảm hại sau 1975.
Đó là vì họ cạn vốn, cái vốn đời và vốn học sau khi
đã viết chán chê về mình, thế thôi. Còn Thụy Khuê nêu
ra rằng họ “đã có những nhận xét độc đáo, đôi khi
trắng trợn, tàn nhẫn, chế diễu chính bản thân mình” như
một ảnh hưởng khác của sự gián tiếp nhận hiện sinh trong
tinh thần lại càng không đúng: đó chỉ là một thứ bản
năng tự vệ phản ảnh từ chính đời sống họ, một đời
sống bất thường và bất an vì bất lực trước hoàn cảnh,
vì không làm chủ được số phận của mình, vì bị cảm
xúc đẩy đưa (ném lao phải theo lao) chứ chẳng phải nẩy
sinh vì một thứ tinh thần tự giác mạnh mẽ tạo được
nhờ kiến thức và kinh nghiệm nào cả. Người đọc còn phải
cười lớn khi đọc câu “những nhà văn này đã tạo được
một dòng văn học táo bạo khi viết về mình; một cách nào
đó họ đã ”giải phóng” người phụ nữ khỏi mặc cảm
Khổng Mạnh...” (sđd) Không phụ nữ nào ở Sài Gòn hoặc
vài tỉnh ngoài Sài gòn lúc đó có dịp đọc cái loại văn
học táo bạo đó mà lại ngây thơ đến độ bắt chước
bằng cách bỏ nhà ra đi, chung sống với đàn ông trước khi
có hay không có cưới hỏi như hay đem những thói quen của
chồng và quê quán chồng ra nguyền rủa vv.. để giải phóng
người phụ nữ khỏi mặc cảm Khổng Mạnh cả. (Nói thế
cũng có nghĩa không biết Khổng Mạnh là gì!) Các tác phẩm
này hoàn toàn không gây được tiếng vang hay kết quả cụ
thể nào với phụ nữ Miền Nam thời bấy giờ. Đằng khác,
nhiều tác phẩm của một số nhà văn nữ trước 1975 còn
là bằng chứng phô diễn sự kém hiểu biết của họ trước
những cao trào thế giới đồng thời với một sự thiếu
căn bản rõ ràng về văn minh Á Đông và Việt Nam. Bởi thế,
cho rằng “đó là cái mới mà họ đem đến cho văn học
miền Nam trước 75” thì lại càng sai hơn nữa, sai như khi
mới đây Thụy Khuê viết Thanh Tâm Tuyến là “cha đẻ của
Thơ tự do” vậy! Rất nhiều người đã nhận ra hàng loạt
các sai lầm ấy. Một tác giả, Đinh Bá Thi, đã có mấy lời
nhận xét:
-.Thụy Khuê là cây bút
năng động, nhiệt tình, bàn đến nhiều lĩnh vực khác nhau:
triết học, văn học Việt, văn học Pháp, hội họa, âm nhạc,
sử học, hán nôm học,...Trong các bài viết của Thụy Khuê
từ trước đến nay, không phải người ta không thấy có nhiều
sai lầm. Nhưng quả là với bài cuối cùng, các sai lầm đó
nhân lên gấp bội, kể cả về số lượng và chất lượng
[...] Tôi đoán rằng Thụy Khuê đọc qua loa ở đâu đó về
Déconstruction, nhưng vì trình độ ngôn ngữ (cả Pháp lẫn
Việt) và hiểu biết (văn học, triết học) có hạn, nên không
hiểu và không diễn đạt nổi ...(Đoàn Cầm Thi, Phê bình
văn học có cần chính xác không? Từ Thụy Khuê đến Phạm
Xuân Nguyên, viết tại Paris, đăng trên Diễn Đàn Talawas,
14. tháng 2. 2003) .
Hơn hai năm
sau, Phan Thanh Nhị ở Sài gòn, trong bài Xin trao đổi với
Thụy Khuê đã tha thiết “mong nhận được hồi âm”
sau khi viết một bài phân tích “nhiều sai lầm rất sơ đẳng”
trong bài viết mới đây của Thụy Khuê về Thanh Tâm Tuyền.
Bài viết đó đã có những cái sai đau sai đớn về các mốc
thời gian quá sơ đẳng như Phan Thanh Nhị đã chứng minh chứ
chưa cần nói đến những cái “cao siêu” vội.
- [...]Cách đấy mấy
năm trên Talawas tôi đọc được một nhận xét gay gắt của
Nguyễn Trung về Thụy Khuê: “Theo tôi, kiến thức của Thụy
Khuê có lẽ không hơn bậc Trung học của Sài gòn cũ [...]
Các cụ có câu; ‘dốt mà hay nói chữ’ ...” Lúc đó tôi
chưa đọc Thụy Khuê nên nghĩ là Nguyễn Trung quá nặng lời.
Gần đây cũng trên Talawas tôi đọc được một nhận xét
khác về Thụy Khuê...Nguyễn Mộng Giác trả lời một cuộc
phỏng vấn: “Bộ môn phê bình ở miền Nam trước kia và
hải ngoại bây giờ rất yếu. ...Bây giờ điểm lại người
có uy tín nhất hiện nay là Nguyễn Hưng Quốc, tiếp theo là
Đặng Tiến,...Thụy Khuê...” Tò mò trước những ý kiến
đối ngược như vậy, tôi tìm các tác phẩm của Thụy Khuê
để đọc...Nhưng tôi càng đọc càng thất vọng. Bài viết
nào của bà cũng chứa nhiều sai lầm rất sơ đẳng. Tôi xin
dẫn bài viết mới nhất của bà, bài Thanh Tâm Tuyền
đăng trên báo Văn Học xuất bản tại bang California, Hoa Kỳ
số 231 ra tháng 5 và tháng 6 năm 2006 để chứng minh....(Diễn
Đàn Talawas, sđd, 8. 7. 2006)
Y hệt như trường
hợp Nguyễn Hưng Quốc, các sai lầm nhân lên gấp bội,
kể cả về số lượng và chất lượng và chứa nhiều sai
lầm rất sơ đẳng đó không ngăn cản việc Thụy Khuê
xuất hiện thường trực không phải trên chỉ một tạp chí
mà tới ba tạp chí ở Hoa Kỳ và vẫn được coi như một
nhà phê bình có “uy tín” (!) theo lời một ông cựu chủ
báo vẫn đăng bài Thụy Khuê. Còn Đặng Tiến? Sự nông cạn
của Đặng Tiến vừa bầy ra lồ lộ qua một bài viết tựa
cho phái Tân Hình Thức mà không biết Tân Hình Thức là gì!
Sự xuất hiện
ấy đưa tới một nhận xét hoàn toàn khách quan: những người-hay
nhóm- chủ trương các tạp chí ấy lắm khi không nắm vững
được vấn đề để mà yêu cầu sửa đổi hay đặt dấu
hỏi thỏa đáng trước khi đăng lên. Ấy là mới nói về
Văn Học Miền Nam, chưa nói tới văn học Việt Nam hay thế
giới. Khiến đặt ra một vấn đề: trách nhiệm của chủ
bút hay của nhóm chủ trương. Bởi lẽ nếu những bài sai
lầm ấy không được cho đăng, người ta sẽ không mất thì
giờ để nói đến. Trước đây, trong Văn Học Miền Nam không
thể xẩy ra những trường hợp như thế vì đã có những
Thư Ký Tòa Soạn, những Chủ Bút mà tên tuổi là đại diện
cho linh hồn một tờ tạp chí. Họ có đủ khả năng văn chương
để đánh giá một bài viết dù của bất cứ một tác giả
nào. Thí dụ Trần Phong Giao. Ông ra khỏi tờ Văn năm 1972 và
tạp chí này không bao giờ gượng lại được nữa. Tờ Văn
nay tái bản ở Hoa Kỳ nhưng quả có đôi lúc người ta đã
phải tự hỏi về trách nhiệm người Chủ Bút khi chỉ cách
đây vài tháng đã cho đăng một bài phỏng vấn hết sức
tệ. Chưa kể một bài viết cũng tệ không kém vào một dịp
khác, dịp tưởng niệm Trần Phong Giao (!)
Theo thiển ý người
viết, việc các ông chủ báo như ông chủ báo vừa cho đăng
bài Thụy Khuê, Đặng Tiến (và các nhân sự tương tự), vừa
chê giới phê bình “yếu” là không lương thiện và qúa
khôi hài. Khôi hài như dân Miền Nam vẫn nói “chuyện dài
nhân dân tự vân mà chưa chết”. Anh không thể vừa chỉ
trích tình trạng phê bình vừa góp phần đắc lực, quá đắc
lực là đằng khác, vào tình trạng ấy bằøng cách đăng
những bài quá kém như thế. Là người chủ trương một tạp
chí, anh có toàn quyền chọn bài đăng, thậm chí còn có quyền
không đăng bài của những người anh không ưa (dù thế có
vẻ không anh hùng hảo hớn chút nào) nhưng không thể dở
đến nỗi không biết người anh chọn đã bị chỉ trích ra
sao, đúng hay sai và nếu cần, chính anh phải lên tiếng nhận
lỗi hay bênh vực bỉnh bút của anh. Sau nữa, quan trọng
hơn, người ta đánh gía một nhà phê bình không chỉ trên
khả năng mà còn trên tinh thần phục thiện. Điều làm người
ta nhớ nhất về Võ Phiến, Nguyễn Hưng Quốc (và nay cả Thụy
Khuê) là sự im lặng khi bị chứng minh là sai. Không có
nhà phê bình “uy tín” nào có thể quên điều này: nếu
sáng tác là một bộ môn dựa trên sự sáng tạo (nghĩa là
có sự tưởng tượng) thì phê bình là một bộ môn cần sự
chính xác. Sự nghiệp một nhà phê bình sẽ chấm dứt khi
người đọc không còn tin cậy được ở tinh thần chính xác
và phục thiện ấy.
Để kết luận,
liệu chúng ta có nên bi quan về tình trạng phê bình trong và
ngoài nước không? Người viết nghĩ là không. Cái họa Cộng
sản đã tàn hại Việt Nam hơn nửa thế kỷ thì không phải
một sớm một chiều mà phất ngay lên được. Lợi thế của
trong nước là thời gian. Luôn luôn sẽ có nhiều người viết
can đảm và đủ khả năng để tạo được những công trình
mới hay tiếp tục những nghiên cứu của họ.
Riêng ở ngoại quốc,
vấn đề thiếu thốn tài liệu sẽ là trở ngại lớn nhất.
Bù lại, còn một số nhân chứng sẽ là những tài liệu vô
giá nếu được sự hợp tác của họ. Nhưng thời gian không
đứng về phía các nhà phê bình ở ngoại quốc vì thế hệ
nhà văn thuộc Văn Học Miền Nam sẽ lui dần vào với lịch
sử và sự hợp tác của họ phải nói là hiếm hoi. Nhưng
một người hết sức cố gắng cũng có thể phối hợp số
tài liệu và nhân chứng tuy ít ỏi mà vô cùng quan trọng này
để không chỉ làm công việc phê bình cho nghiêm chỉnh mà
còn thêm một phần quan trọng nữa: chính người phê bình
đó sẽ nhận trách nhiệm cung cấp tài liệu qua bài viết
của mình bằng những nhận xét và phán đoán căn cứ trên
dữ kiện, tác phẩm và nhân chứng đã thu thập được. Đó
là một trách nhiệm đòi hỏi một thứ can đảm khác: sự
can đảm để tìm kiếm và công bố những tìm kiếm ấy dù
có đi ngược lại sự tin tưởng và thói quen của người
khác. Nhưng viết đã luôn luôn là một sự can đảm duy người
phê bình cần tới hai lần can đảm: can đảm để có một
cách nhìn riêng và can đảm để nhận sự phê bình của người
khác dù đúng hay sai.
Nguyễn Tà
Cúc