MỞ.
PHẦN MỘT- THIẾU CHÍNH XÁC
I. Bộ Môn Truyện
Trường hợp Ðỗ Tiến Ðức và
Má Hồng
Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng
và Kim Lefèvre
Ai phát giác Mai Thảo?
II. Bộ Môn Thơ
Vũ Hoàng Chương chê thơ Ðinh Hùng?
III. Bộ Môn Ký
Nhã Ca và Giải Khăn Sô Cho Huế
1. Sự bịa đặt trong cả hai cuốn
Ký: Giải Khăn Sô Cho Huế (trước 1975) và Hồi Ký Một Người
Mất Ngày Tháng (sau 1975)
a.Vụ Nguyễn Ðắc Xuân (Ðắc)
và Trần Mậu Tý (Tý)
b.Hai cuốn Ký song sinh
2. Rủi Ro hay Cố Ý (bịa đặt
trong Ký, một thể văn không thể bịa đặt được)
PHẦN HAI - PHÊ BÌNH SAI LẦM vì
CHỦ QUAN, THEO CẢM TÍNH, KHÔNG CÓ CÔNG TÂM hay KHÔNG CÓ ÐỦ
KIẾN THỨC VĂN CHƯƠNG CẦN THIẾT
A.Sai Lầm vì Chủ Quan
I.Bộ Môn Truyện
Trường hợp Túy Hồng và Tôi Nhìn
Tôi Trên Vách
B. Sai Lầm vì Theo Cảm Tính
I.Bộ Môn Truyện
Trường hợp Duy Lam
II.Bộ Môn Thơ
Trường hợp Vũ Hoàng Chương, Ðinh
Hùng và Thanh Tâm Tuyền
*Trường hợp Vũ Hoàng Chương và
Ðinh Hùng
a.Thuật Viết Chữ
b.Chơi Chữ
*Trường hợp Thanh Tâm Tuyền
C.Sai Lầm vì Không Có Công Tâm
I.Bộ Môn Truyện
Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng
và Nhã Ca
Trường hợp Túy Hồng và Linh Bảo
II.Bộ Môn Thơ
Trường hợp Vũ Hoàng Chương và
Ðông Hồ
D.Sai Lầm vì Không Ðủ Kiến
Thức Văn Chương
@ Tập VĂN HỌC MIỀN NAM-THƠ
Trường hợp Tuệ Sỹ
Trường hợp Ðỗ Tấn
Trường hợp Anh Tuyến và Nguyễn
Nhược Pháp
Trường hợp Trần Dạ Từ (với
Nhã Ca) và Thanh Tâm Tuyền
Trường hợp Tô Thùy Yên
KẾT
"TẠP
BÚT" KHÔNG PHẢI LÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Tháng chín năm 1999, mười ba năm
sau khi cuốn Văn Học Miền Nam- Tổng Quan (1.1986) ra đời, nhà
văn Võ Phiến hoàn tất công việc này bằng sáu cuốn dành
cho các bộ môn sáng tác: ba cho truyện (50 tác giả, tổng côäng
1306 trang), môät cho Tùy Bút&Kịch (4 tác giả phần tùy
bút và 10 tác giả phần kịch, 417 trang), một cho Ký (22 tác
giả, 418 trang) và một cho Thơ (32 tác giả, 416 trang).
Nếu làm cẩn thận, đây là một
việc làm tốt đẹp cho những ai- nhất là những người đi
sau- muốn tìm đọc và khảo cứu về văn chương miền Nam
vì có phần văn thơ tiêu biểu cho những tác giả này đính
kèm. Như đã nói trong "Lời nói đầu", Võ Phiến đã hình
dung được vài phản ứng của độc giả khi không thấy những
tác giả mà số độc giả đó yêu chuộng:
-…người thi sĩ mến yêu ấy, ông
tiểu thuyết gia lỗi lạc kia, bà nữ sĩ tài năng nọ, sao
không thấy có mặt ở đây? Thiếu sót lớn quá! Còn như ông
này cô nọ, là ai vậy? Nghe lạ hoắc. Họ biến thành văn
thi sĩ hồi nào vậy cà? Những trách cứ như thế, chúng tôi
có nghĩ đến, có đóan thấy, và rất lấy làm ái ngại. Nhưng
thật khó tránh khỏi. Một phần vì thiếu sót vẫn là chuyện
thường xẩy ra, mà tuyệt hảo là cái…bất khả." (Võ Phiến,
Truyện, Tập I, trang 506, nhà xuâát bản Văn Nghệ, Hoa Kỳ,
1999).
Trên nguyên tăéc, độc giả chỉ
mong ước mà không đòi hỏi sự "tuyệt hảo" ở các nhà phê
bình văn học. Nhưng chắc chắn điều mà họ đòi hỏi trước
tiên là sự chính xác và công tâm. Nhất là ở trường hợp
Võ Phiến, xưa nay vẫn chỉ có tiếng là một nhà văn và một
người viết "tạp bút", không phải một nhà phê bình. Nhưng
nay ông đã bước sang lĩnh vực này thì thử xem các tập viết
mới đây có chính xác, có công tâm không, trước khi bàn đến
khả năng chuyên môn căn cứ trên tiêu chuẩn chọn một tác
giả và sự tuyệt hảo khi nhắm vào việc tuyển chọn các
tác giả ấy.
Ngoài ra, sẽ căn cứ vào chính sự
lựa chọn và lời phê bình của tác giả để cũng bàn qua
về những vấn đề văn học có liên quan đến chính trị
vì văn học miền Nam và nhà văn miền Nam vẫn còn là mối
bận tâm của nhà cầm quyền hiện nay.
PHẦN MỘT - THIẾU CHÍNH XÁC
Một trong những lỗi lầm lớn nhất
của bộ sách này là Võ Phiến viết thiếu chính xác dẫn
đến sự sai lầm hay võ đoán vì không đặt nặng vấn đề
tài liệu. Lỗi lầm này càng trầm trọng hơn ở chỗ những
tác giả mà ông đề cập đến và sự việc liên quan đến
họ xẩy ra ngay lúc này, đương thời, không xa xôi gì để
mà nại cớ là không có hay không đủ tài liệu.
I. BỘ MÔN TRUYỆN
Trường hợp Ðỗ Tiến Ðức
và Má Hồng
Võ Phiến nêu một câu hỏøi mà
nếu người đọc chỉ đọc qua, lại không có cuốn Má Hồng,
sẽ cho là một câu hỏi chí lý:
-…Má Hồng là một câu chuyện
một số công chức, quân nhân và thiếu nữ, ở một quận
châu thành, vào thời kỳ chiến tranh gay cấn hồi đệ nhị
cộng hòa ở Miền Nam. Quận nào? Châu thành nào? Thuộc tỉnh
nào vậy? Tác giả không nói…(trang 753, sđd)
Rồi Võ Phiến nói hộ tác giả:
-…Ðại khái cũng giống như trong
phần lớn các cuốn truyện do văn sĩ xã hội chủ nghĩa viết
thời văn nghệ cởi trói. Cởi trói thì được phép viết
về cái xấu; nhưng cái xấu nào có tên, có tuổi, xảy ra
ở những địa phương cụ thể, thì động chạm đến những
thế lực quyền uy này nọ, e gặp rắc rối. Thời dân chủ,
dù đã cởi trói xong, văn chương vẫn khó cựa quậy hơn thời
phong kiến thời đế quốc: trong các truyện xưa nhân vật
đều có quê có quán…Có đâu vất vưởng như dưới thời
dân đã làm chủ…(sđd)
Nghĩa là văn chương miền Nam được
tự do bằng văn chương Việt nam cởi trói và thua thời phong
kiến đế quốc?! Nhưng nếu người ta có cuốn Má Hồng tái
bản tại Hoa Kỳ thì dở ngay "Ít Hàng Giới Thiệu của NHÀ
XUẤT BẢN" sẽ tìm ngay ra được lý do tại sao không có tên
quận, châu thành, tỉnh…như Võ Phiến đòi hỏi:
-Má Hồng được viết từ năm 1969
hồi Ðỗ Tiến Ðức làm Thanh Tra Bộ Thanh Niên và Thể Thao.
Công việc đó khiến ông phải đi khắp nơi, từ Quảng Trị
tới Cà Mau, gặp từ ông Ðại biểu Chánh phủ tới người
cán bộ xã. Nhờ thế nên Ðỗ Tiến Ðức được thấy được
nghe những thảm trạng của đất nước trong thời chinh chiến.
Và ông viết thành sách…
Như vậy Má Hồng không thể có
tên một tỉnh, châu thành, quận nào vì lý do giảøn dị là
những chuyện xẩy ra trong Má Hồng xẩy ra ở nhiều quận,
nhiều châu thành, nhiều tỉnh…chứ chẳng phải tại động
chạm đến những thế lực quyền uy này nọ…như Võ Phiến
võ đoán. Thêm nữa, truyện không phải là ký, đâu thể đòi
hỏi tác giả phải nêu tên thật của mọi nhân vật, nơi
chốn ra? Ðó còn là môät vâán đề liên quan đến khía cạnh
khác của văn chương: nhà văn có thể nào dựng một nhân
vật với những chi tiết đặc biệt đủ để người đọc
nhận ra họ ỏ ngoài đời hay không? Nếu được thì khi nào
thực chấm dứt và truyện bắt đầu?
Một người viết rất nhiều truyện
như Võ Phiến mà đặt vấn đề này ra thì hơi lạ đấy.
Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng
và Kim Lefèvre
Ðể phê bình cách viết của Nguyễn
Thị Hoàng, Võ Phiến đưa ra một sự so sánh giữa Nguyễn
thị Hoàng và Kim Lefèvre:
-…Tình cờ mà Nguyễn thị Hoàng
với Kim Lefèvre cùng sinh vào năm 1939, cùng học ở Nha Trang,
về sau cùng là văn sĩ tiếng tăm. Vào thập niên 50, ở Nha
Trang có xẩy ra hai mối tình thày trò. Hai nữ sinh yêu thày
mỗi người phản ứng một cách. Người "tây" hơn cả, người
có hẳn một nửa lượng máu Tây phương trong huyết quản,
lại khuất phục theo truyền thống Á Ðông, cúi đầu chịu
trận đòn dữ dằn trong gia đình, bỏ Nha Trang đi nơi khác
trốn lánh sự đay nghiến của dư luận. Còn người kia…Vậy
thái độ cương cường, dõng dạc trước dư luận, đâu phải
lúc nào cũng là một thái độ …tây! (trang 1095, sđd)
Sau này sẽ bàn đến chuyện nại
cớ phê bình văn học để lôi đời riêng (của Nguyễn Thị
Hoàng) ra dè bỉu. Ngay bây giờ hãy xét xem tin tức dùng để
chê ấy có đúng không. Nghĩa là mối tình thày trò mà Võ
Phiến nhắc đến có phải là lý do duy nhất hay lý do chính
để Kim Lefèvre phải "bỏ Nha Trang đi nơi khác"? Võ Phiến
không chỉ ra là đã căn cứ theo tài liệu nào nên nguời đọc
bắt buộc phải tìm câu trả lời ở những tài liệu khác.
Theo một bài viết rất công phu,
Nửa Dòng Máu Việt trong quyển Lôái Xưa Xe Ngựa của nhà
biên khảo Nguyễn Thị Chân Quỳnh (Pháp) thì không:
-…Sinh tại Hà-nội, có lẽ vào
năm 1937: Kim không có khai sinh thực sự. Cái tên Lam Kim Thu
do cha dượng đặt và khai cho khi Kim lên mười để có giấy
tờ đi học. Cha đẻ là một quân nhân Pháp, Jean Tiffon, song
hai cha con chưa bao giờ gặp nhau: Kim là con vô thừa nhận.
Mẹ Kim, nguòi Bắc, có một trình độ học vấn cao so với
phụ nữ thời xưa (certificat d’etudes), vì trót sinh con hoang
nên bị gia đình hắt hủi. Thời thơ ấu của Kim là một
chuỗi ngày đau khổ…Ði đến đâu Kim cũng nghe toàn những
lời cay đắng:" cái giống lai nó bạc lắm". Năm lên 6, mẹ
bị gia đình ép phải bỏ Kim vào viện mồ côi…được mẹ
đón về ở với cha dượng, một người Tàu ở Chợ Lớn,
hết sức lạnh nhạt với Kim…Cũng may mẹ Kim đủ sáng suốt
để nhận định Kim cần phải có học vấn để tự tạo
một tương lai sáng sủa…, và Kim đã đi học trong một tình
trạng khác người: học bài vụng trộm trong bếp, cập sách
dấu trong đống củi…và nhâát là nhờ sự giúp đỡ của
mẹ, Kim đã giành được một địa vị trong xã hội: tốt
nghiệp hạng ba trường Ðại học sư phạm và được bổ
nhiệm ngay tại Saigon. Mấy tháng sau được học bổng sang
Pháp (1960) Kim đã chọn ở lại Pháp, đi dạy học các trường
trung học một thời gian rồi chuyển sang ngành ca kịch. Năm
1989, Kim cho ra đời cuốn Métisse Blanche (Ðứa con gái lai bạch
chủng)…Nhờ cuốn sách này, Kim đã nối lại được liên
lạc với Việt Nam mà Kim cố tình tránh né từ lâu: Việt
Nam gợi cho Kim những ngày thơ ấu đầy đau khổ. Ngày nay
Kim đã trở về thăm gia đình và thăm Việt Nam, Kim đã giải
tỏa được nỗi sợ hãi Việt Nam mà Kim lại vừa yêu vừa
hận…"
Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Nửa Dòng
Máu Việt, Lối Xưa Xe Ngựa, trang 279, 280, 281, An Tiêm xuất
bản lần thứ nhất, 1995, Paris, Pháp)
Nửa Dòng Máu Việt là một bài
viết phân tích về thân thế và tác phẩm của bốn người
cầm bút Việt Nam mà chỉ có bố hay (mẹ) là người Việt.
Bốn người ấy là: Samuel Baron, mẹ người Bắc, bố người
Hòa Lan; Michel Ðức Chaingeau, mẹ là người công giáo Huế
tên Benette Hồ thị Huề, bố người Pháp; Hồ Dzếnh, tên
thật là Hà Triệu Anh, mẹ người Bắc, bố người Trung Hoa;
và gần đây nhất, Kim Lefèvre, mẹ người Bắc, bố người
Pháp. Bởi thế, có đoạn sau còn rõ hơn nữa:
-…kể cả những người thân nhất,
đôi khi cũng thốt ra những lời làm Kim tủi cực: "Mày là
con lai, chúng tao tin mày thế nào được?". Người lớn cũng
một luận điệu:" Nuôi làm gì cái giống lai, ngày sau lớn
lên, cái máu Tây mạnh hơn, nó sẽ bỏ mình ngay. Giống lai
là chúa bạc"
-…Bên cha không nhận, bên mẹ hắt
hủi…Ngày nay bình tâm nghĩ lại, Kim đã thận trọng cân
nhắc:"Việt Nam nuôi dưỡng tôi, …Tôi thiết tha với Việt
Nam, tổ quốc của tôi…, nhưng Việt Nam không yêu tôi và
sẽ chẳng bao giờ chấp nhận tôi. Tuy vậy tôi cũng không
lên án Việt Nam. Việt Nam với tôi là hình ảnh người mẹ
dịu hiền" (Metisse blanche)..
(Nguyễn Thị Chân Quỳnh, trang 283,
284, sđd)
Và đây là nhận xét của tác giả
Lối Xưa Xe Ngựa có chút liên quan đến việc Kim Lefèvre rời
Tuy Hòa (Nha Trang) rồi sang Pháp:
-Ðâu là sự thực?
…Thuở nhỏ Kim quả có một đời
sống cay cực, nhưng nói rằng "Việt Nam không yêu và sẽ không
bao giờ chấp nhận Kim" thì có phần oan cho Việt Nam …Kim
nhận xét ở Việt Nam mình bị lạc loài, sang Pháp được
đón nhận ngay. Nhưng hai trường hợp khác hẳn nhau. Nước
Pháp giang tay đón tiếp một thiếu nữ trẻ đẹp, có học
vấn, có nghề nghiệp, tương lai. Việt Nam, trái lại, phải
bắt buộc cáng đáng một đứa con rơi của kẻ thù, có thể
lớn lên nó sẽ hùa theo những đứa con lai khác quay lại ức
hiêáp khinh khi người nuôi dưỡng nó…Kim chọn ở lại Pháp
vì đời sống Paris thích hợp với Kim hơn…Ở Saigon, ai làm
gì mọi người đều biết, ở Paris mạnh ai nấy sống, không
ai có thì giờ dòm ngó đến ai. Lòng ưa chuộng tự do của
Kim đã thể hiện ngay từ khi Kim hứa với mẹ sẽ xin đi dậy
học ở tỉnh nhà (Tuy Hòa) song lại nộp đơn xin dậy ở Saigon,
vì tự biết ở Saigon không bị gia đình kiềm thúc…(Nguyễn
Thị Chân Quỳnh, trang 288, 289)
Tôi phải trích dẫn dài dòng như
thế để chứng tỏ hai điều.
Thứ nhất, lập …giả thuyết-
như Võ Phiến- mà dựa trên những tin tức sai lầm hay thiếu
sót, lập tức cái giả thuyết ấy đổ ngay. Trường hợp
Kim Lefèvre không giản dị như Nguyễn Thị Hoàng: Kim là "con
lai" không được bố (Pháp) công nhận vào những thập niên
40, 50, 60 là một sự tủi nhục còn kinh khủng hơn các thập
niên sau này. Bởi thế sự bỏ Tuy Hòa rồi Việt Nam không
thể chỉ căn cứ trên một mối tình không toàn vẹn như Võ
Phiến đã viết (mà không hề chỉ ra tài liệu, nhân chứng
ở đâu để độc giả dễ dàng kiểm chứng, so sánh).
Sau nữa, chỉ trưng ra sự kiện
này còn là một sự hết sức bất công với sự cố gắng
gần như phi thường của một cô bé con lai bị xua đuổi,
đẩy vào cô nhi viện, hắt hủi khinh rẻ… để học cho đến
thành tài. Càng bất nhẫn hơn, là ném đi luôn sự đau đớn,
là gieo tiếng dữ cho bà mẹ cuả Kim Lefèvre, một người mẹ
không chịu bỏ con và bằng mọi cách chu toàn bổn phận của
mình (…Người đàn bà vốn rất phục tòng chồng này đã
không ngần ngại, lén lút xin cho con riêng đi học…Khi còn
làm bếp cho một ông Giám đốc Viện Hải học ở Nha Trang,
thấy ông có ý săn sóc dậy Kim tiếng Pháp, mẹ Kim đánh bạo
xin ông giúp Kim đi học…Lập tức ngày hôm sau bức tường
phân chia chủ tớ lại được vạch ra phân minh…(Nguyễn Thị
Chân Quỳnh, trang 281, 282, sđd)?
Thứ hai, trừ khi cần thiết phải
phân tích một tác giả, cấm kỵ nhất là lôi đời riêng
ra mà xoi mói, chưa kể là lôi đời riêng của một tác giả
khác không dính líu gì đến, chỉ với thâm ý tàn hại người
kia. Nghĩa là so sánh văn chương Nguyễn Thị Hoàng với Nhất
Linh thì được nhưng so sánh đòi riêng Nguyễn Thị Hoàng với
đời riêng Kim Lefèvre thì không. Aáy là chưa kể cái người
xoi mói chắc gì đã trắng như bông, hồng như lửa. Nghĩa
là không được "đánh dưới vòng eo" (below the belt) như Võ
Phiến đã làm trong trường hợp này.
Phải dùng đến nửa giòng máu ngoại
quốc của Kim Lefèvre ra chỉ để mỉa mai thái độ của Nguyễn
Thị Hoàng (công khai nhìn nhận sự dính líu tình dục với
một người đàn ông có vợ, Cung Giũ Nguyên) là "đâu phải
lúc nào cũng là một thái độ.. tây" là một sự so sánh không
cần thiết và sai hoàn toàn. Có …sống ở tây bao giờ chưa,
biết bao lăm về phong tục tập quán của người ta mà dám
đại ngôn là đàn bà tây đều phản ứng kiểu Nguyễn Thị
Hoàng?! Một người từng viết truyện như Võ Phiến phải
hiểu rằng phản ứng của phụ nữ trong những trường hợp
tình duyên ngang trái không tùy thuộc hoàn toàn chỉ vào văn
hóa, đất nước mà họ sinh trưởng. Tình yêu là một thứ
cảm xúc vô cùng mãnh liệt, chỉ huy hầu hết mọi cảm xúc
khác trong lúc đó khiến dù Ðông dù Tây, dù bây giờ hay ngàn
xưa, người ta đều lắng nghe theo cái ngôn ngữ ẩn mật ấy.
Nếu phân biệt Ðông Tây, kim cổ,
đã không có Thôi Oanh Oanh của Mái Tây, đã không có Lady Chatterley’s
Lover (D. H. Lawrence, xuất bản 1928- viết về mối tình rồi
cuộc bỏ trốn của vợ một nhà quý tộc với một người
giữ vườn cho dinh cơ của nhà quý tộc ấy), rồi cũng đã
không cóù nỗi tiếc hận của Thúy Kiều "Nhụy đào thà bẻ
cho người tình chung". Thị Mầu và Thị Kính là hai phương
diện tương phản của đàn bà: một vì lòng yêu thiết tha
mê cuồng mà quyến rũ cả sư sãi; một kia như Phật bà Quan
Aâm, dang tay ôm hết oan trái của mình và của người. Còn
nói về những phương diện đạo đức khác, hầu như trong
bất cứ chuyện dân gian nào cũng có hai nhân vật song song:
Cúc Hoa và Tào Thị, Tấm và Cám…
Bổn phận nhà phê bình khi phân
tích một tác giả là lần bước theo những ngõ ngách bầy
ra trong tác phẩm họ, chứ không phải là một viên phán quan
chăm chắm vào những ngõ ngách của đời riêng họ một cách
trần tục.
Cho nên, quan trọng hơn hết thẩy,
là sự xúc phạm tới Kim Lefèvre. Ðộc giả có thể liên tưởng
rằng sau bao nhiêu năm bị ám ảnh về quá khứ tủi cực "con
lai" của mình, vết thương đã lành, "Kim đã trở về thăm
gia đình và Việt Nam. Kim còn dịch Tướng Về Hưu của Nguyễn
Huy Thiệp và ký tên vào danh sách những người đòi trả lại
tự do cho Dương Thu Hương. Quả nhiên Kim Lefèvre vẫn quan tâm
đến quê mẹ." (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, trang 293, sđd)… thì
không hiểu chúng ta nên nghĩ gì khi phải đọc những câu bàn
tán, xuýt xoa về gia đình và đời riêng trong một câu chuyện
không hề dính líu gì đến bà hay các tác phẩm của bà ("cúi
đầu chịu những trận đòn dữ dằn,…sự đay nghiến của
dư luận…")?
Ai cho Võ Phiến, cho chúng ta những
người câàm bút, cái quyền "dàn dựng" chuyện riêng tư của
người khác, cái quyền cắt xén sự thật, cái quyền viết
lách lấp lửng (hai mối tình thày trò, người này, người
kia)… để múa may lập (giả) thuyết?
Ai phát giác Mai Thảo?
Trong tập Truyện 3, trang 1804 (sđd),
Võ Phiến viết như sau:
-…còn Mai Thảo mãi đến năm 1955
mới được ông Nguyễn Sỹ Tế phát giác ra, cho đăng cái
truyện ngắn đầu tiên… (Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số
39, tháng 2&3-1998, trang 7)
Ông Nguyễn Sỹ Tế không phải là
người phát giác ra Mai Thảo. Tôi cần mở ngoặc đơn ra đây
để nhận xét rằng cái chữ ông Nguyễn Sỹ Tế mà Võ Phiến
dùng trong trường hợp này không được chỉnh. Võ Phiến có
quyền không công nhận Nguyễn Sỹ Tế là một nhà văn hay
nhà thơ nhưng không nên quên rằng Nguyễn Sỹ Tế là một
trong những người thuộc nhóm Sáng Tạo, từng đi tù nhiều
năm vì ngòi bút của mình, từng có hoạt động trong cả hai
lĩnh vực văn chương và giáo dục, dù những hoạt động ấy
có thể không xuất sắc. Nếu không gọi Nguyễn Sỹ Tế là
nhà văn, ít nhất cũng nên gọi Nguyễn Sỹ Tế hoặc chỉ
bằng tên không hoăëc bằng danh xưng thông thường của ông
ta là giáo sư Nguyễn Sỹ Tế. Trở lại vấn đề Mai Thảo,
Nguyễn Sỹ Tế không phải là người khám phá hay phát giác
ra Mai Thảo. Người phát giác ra Mai Thảo là Thanh Tâm Tuyền.
Tài liệu mà Võ Phiến trích dẫn (không có cả tên người
viết) trên tờ Hợp Lưu chính ra là một cuộc phỏng vấn
do Thụy Khuê thực hiện:
TK:-Xin cảm ơn anh Duy Thanh. Nhà văn
Nguyễn Sỹ Tế là người đã đăng truyện ngắn đầu tiên
Ðêm Giã Từ Hà Nội của Mai Thảo. Thưa anh, trong điều kiện
nào đã phát sinh nhóm Sáng Tạo và tên tuổi của Mai Thảo
ạ?
Nguyễn Sỹ Tế:-…trong những năm
54 đến khoảng giữa năm 55, thì một hôm trong thư tín tôi
có nhận được một truyện ngắn nhan đề là Ðêm Giã Từ
Hà Nội, người viết chính là anh Mai Thảo….và tôi đã đăng
báo để mời tác giả đến. Vài hôm sau anh Mai Thảo đến
gặp gỡ chúng tôi, và rồi anh bước vào làng văn từ đó…
Nhưng theo lời một nhân chứng khác
thì Nguyễn Sỹ Tế không phải là người nhận trong thư tín
truyện ngắn đầu tiên của Mai Thảo, không phải là người
"đầu tiên" đọc văn Mai Thảo, cũng không phải là người
quyết định cho đăng lên báo, cũng không phải là người
đăng báo để mời Mai Thảo đến tòa soạn. Người làm tất
cả những việc đó là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền. Trong một
bài viết đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân (nghĩa là đầu
năm) 98, Thanh Tâm Tuyền thuật lại rất rõ:
-…Trong khi chờ anh Hiệp (Trần
Thanh Hiệp-chú của người viết) tìm kiếm nguồn tài trợ,
chúng tôi nhận hợp tác với nhật báo Hòa Bình của anh Vũ
ngọc Các, làm trang văn nghệ hàng tuần cho tờ báo. Tôi được
giao phó công việc đầu bếp lo việc sắp xếp bài vở cho
trang báo vì rảnh thì giờ nhất và được nết chịu khó
đọc….Mai Thảo gửi đến chúng tôi Ðêm Giã Từ Hà nội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người
gửi, trong đựng xấp bản thảo đánh máy. Bút hiệu Mai Thảo
hoàn toàn xa lạ với tôi. Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của
bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn xuống vực thẳm: Hà
Nội ở dưới ấy.
…Nhớ trong buổi họp kiểm bài
vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không ngăn nổi
mình yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ (Doãn Quốc Sỹ-chú của người
viết), Tế nghe tôi đọc Ðêm Giã Từ Hànội đăng trọn trong
một kỳ báo, không câàn lời giới thiệu. Và tôi đọc say
sưa, hùng hồn liên hồi. Và các anh chịu khó ngồi nghe trên
căn gác lửng tối chật của tờ báo. Anh Tế kết thúc buổi
họp nói đùa: "Anh làm chúng tôi mất cái thú tự mình khám
phá"…Ðăng bài anh, tôi viết lời mời nhắn mời anh đến
chơi tòa soạn. Mai Thảo đến…(Thanh Tâm Tuyền, tháng 2. 98,
số đd, trang 5,6).
Như thế, rõ ràng Thụy Khuê nói
sai, Nguyễn Sỹ Tế nhớ sai và Võ Phiến dẫn sai. Việc dẫn
sai này không thể bỏ qua được vì dính líu đến một trong
những nhà văn và nhóm nhà văn quan trọng của miền Nam là
Mai Thảo và nhóm Sáng Tạo. Nếu không có bài của Thanh Tâm
Tuyền với đầy đủ chi tiết và nhân chứng (còn sống như
Nguyêãn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quôác Sỹ…), người
đọc sẽ vẫn còn bị thuyết phục bởi "huyền thoại" Mai
Thảo là người khám phá ra Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên…và
cái huyền thoại Mai Thảo là người "sáng lập" tờ rồi nhóm
Sáng Tạo. Theo lời chứng của Duy Thanh, Mai Thảo "lẳng lặng"
lấy bài của một số người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên cho đăng vào Sáng Tạo, là tờ báo được cấp ngân khoản
từ phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Mai Thảo hoàn toàn nắm vấn đề
tài chính (nên mới có chuyện Mai Thảo đưa một cô vũ nữ
hoa khôi về ở chung).
Sự thiếu chính xác của Võ Phiến
sẽ càng làm cho huyền thoại này rối mù lên, thay vì sáng
tỏ ra. Vì ngay từ đầu Võ Phiến sử dụng tài liệu của
Thụy Khuê mà Thụy Khuê-qua lời Duy Thanh- không phải là người
biết rõ nhóm Sáng Tạo:
-…Nhiều người cứ tưởng tờ
Sáng Tạo có một đường lối văn nghệ rõ rệt…Nàng Thụy
Khuê ở Pháp, sau hôm Mai Thảo mất cũng điện thoại hỏi
tôi về chuyện này và nêu lên thắc mắc tương tự…Thụy
Khuê còn thắc mắc hỏi giữa Mai Thảo với Thanh Tâm Tuyền
ai là người chính…" (Duy Thanh, Vài Kỷ Niệm Với Mai Thảo,
Tạp chí Thơ, trang 17, 18, số mùa xuân, 1998). Nhưng dù thế,
sự sai sót này vẫn có thể tha thứ được vì tác giả chỉ
không nghiên cứu kỹ. Sang đến phần Vũ Hoàng Chương thì
không vì tác giả cố ý che giấu tài liệu để ngụy chứng
cho giả thuyết của mình.
II. BỘ MÔN THƠ
Vũ Hoàng Chương chê thơ Ðinh
Hùng?
Ðáng ngạc nhiên hơn nữa là phần
Võ Phiêán viết sai về Vũ Hoàng Chương. Vì không có lý do
gì để viết sai cả: ở đây không có chuyện hai người còn
sống (Nguyễn Sỹ Tế và Thanh Tâm Tuyền) nói về một người
đã khuất (Mai Thảo) và bị cung cấp tài liệu bởi một người
không nghiên cứu đầy đủ (Thụy Khuê).
Ở đây là chữ nghĩa trên giấy
trắng mực đen. Trong phần viết về nhà thơ Ðinh Hùng, Võ
Phiến dẫn Vũ Hoàng Chương như một thí dụ bênh vực cho
nhận xét rằng thơ Ðinh Hùng hoặc không được "đề cập
tới" hoặc "chỉ nói qua loa":
-…Muốn vượt qua sự hững hờ
của kẻ bên trong đối với người bên ngoài lề, tôi cố
tìm hiểu thái độ người bạn thân thiết Vũ Hoàng Chương
và đó không phải chuyện dễ. Oâng Vũ nói về cái tình mật
thiết với bạn thì nhiều, nhưng về cái hay cái đẹp của
thơ bạn thì rất ‘thận trọng." Trong cuộc nói chuyện tại
Trung Tâm Văn bút Việt Nam để tưởng niệm Ðinh Hùng, ông
ngại phạm phải lỗi chủ quan, ông tự nhủ mình:"Thận trọng
đấy nhe! Thận trọng và thận trọng hơn nữa!" Tìm mãi không
thấy lời ca ngợi, rốt cuộc tôi chỉ gặp cảnh Vũ chê thơ
Ðinh…" (trang 2840, sđd)
Ðể thuyết phục độc giả về
việc "Vũ chê thơ Ðinh", Võ Phiến kể thêm một giai thoại:
-…Thanh Nam kể trong hồi ký:"Một
dịp tình cờ tại Hà Nội, tôi đã chứng kiến một cuộc
tranh luận giữa Chương và Hùng về một câu thơ của Hùng.
Không rõ câu chuyện bắt đầu từ lúc nào nhưng khi tôi đến
thì thấy Chương vừa cười vừa nói:
-Cái gì mà "Ta lòng như lửa, mắt
như dao…" Tôi không thể hiểu tại sao cậu lại cho câu đó
vào bài thơ này?
Ðinh Hùng mặt đỏ gay, gần như
văng tục:
-Cậu thì hiểu thế "đếch" nào
thơ tôi được mà bàn cãi?
Vũ Hoàng Chương cười xòa, không
nói gì nữa."… (Võ Phiến, trang 2840, 2841, sđd)
Một lần nữa tôi lại phải mở
một dấu ngoặc khác, rằng cái lối gọi xách mé "Vũ" (chê
thơ) "Ðinh" không những không chỉnh mà còn là một sự thiếu
thận trọng. Vì "Ðinh"Hùng(và"Vũ"Hoàng Chương) không phải
là những… anh bạch đinh của làng thơ Việt Nam. Nếu gọi
được Ðỗ Phủ, một nhà thơ Trung Hoa xa lắc xa lơ là "Ðỗ
tiền bối"(sđd) thì không có lý do gì mà gọi các tiền bối
Việt Nam chỉ bằng cái "ho"ï trống không như vậy.
Nhân việc… Võ xủng xoảng bàn
đêán Vũ và Ðinh (mượn cách xưng hô của Võ Phiến) cũng
xin nói qua về cái lễ tối thiểu giữa những người cầm
bút kẻo đám hậu sinh lại bắt chước Võ tiền bối thì
hỏng.
Trong số Khởi Hành số 35, tháng
9. 1999, nhà thơ Viên Linh đề cập đến một vấn đề tương
tự trong phần chú thích của bài Vũ Hoàng Chương, Lịch Sử
Thơ khi ông nhận xét rằng Mai Thảo với tập Ta Thấy Hình
Ta Giữa Miếu Ðền là một người tháp tùng tài ba của Vũ
Hoàng Chương
-…Nhiều người lớp sau ở hải
ngoại ngạc nhiên vì thi tài một nhà văn như Mai Thảo, vì
có thể họ không có một chiều dài quá khứ liên tục về
văn học miền Nam trước 1975…nên thiếu một cái nhìn bao
quát, sát nút, hay không hề đọc Nhị Thập Bát Tú của Vũ
Hoàng Chương. Và cũng không biết sự thân cận giữa hai người
như thế nào, và tập thơ Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Ðền
của Mai Thảo thân cận với Nhị Thập Bát Tú của Vũ Hoàng
Chương như thế nào, tuy rằng dù thân cận đến đâu cũng
không thể là thân cận "mày tao chi tớ" như Mai Thảo đã viết,
nhất là hai người cách nhau 12 tuổi…
Trong Sổ Tay, Văn số tháng 10.1999,
nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng cũng "tình cờ" dẫn chứng lời
Mai Thảo là Vũ Hoàng Chương có cho thân thiết mày tao. Rồi
ông Nguyễn "cảm khái" rằng
-…Tôi hiểu tại sao Phạm Công
Thiện thua tôi một tuổi, và cách Mai Thảo trên* một con
giáp mà cứ mày-mày-tao-tao với tác giả Sống Chỉ Một
Lần. Tôi hiểu tại sao nhà văn Nguyễn Tuân-cùng lứa tuổi
với Vũ Hoàng Chương, không bằng lòng khi tôi gọi bằng bác.
Nhà văn không có tuổi. Nhà văn chỉ có già đi và chết. Nhà
văn không đếm cái khoảng thời gian sống…(chữ in đậm
là của Nguyễn Xuân Hoàng)
Oâng Hoàng nói đúng về việc nhà
văn không có tuổi vv và vv, nhưng phần này ông lạc đề vì
ông đang bàn về chuyện mày mày tao tao cơ mà (bắt chước
in đậm). Oâng cũng lạc đề luôn chuyện Nguyễn Tuân vì rõ
ràng ông vẫn không được mày tao với tác giả Vang Bóng Một
Thời. Sau nữa Phạm Công Thiện có mày tao với Mai Thảo là
chuyện của Phạm Công Thiện. Còn Mai Thảo mày tao với Vũ
Hoàng Chương trên cả giấy trắng mực đen thì là một vấn
đề khác.
Ðể cho "rõ nghĩa", xin đưa một
thí dụ điển hình: nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng thuật lại
một cuộc "ngư tiều vấn đáp" trên Sổ Tay giữa Nguyễn Xuân
Hoàng và Võ Phiến như sau:
-Mày viết bài mới cho tờ Văn đi
chứ. Tao đợi đấy, rồi thủng thỉnh sẽ làm một số đặc
biệt cho mày: xem ra, nhiều đứa theo …đạo Võ Phiến lắm.
-Tao không viết. Gửi cho mày, nhuận
bút chả thấm tháp gì mà lỡ mày cho đăng vào tờ Viet News
thì lại mang tiếng cướp cơm chim của báo Việt Nam trên đó.
Còn số đặc biệt, tao chẳng cần. Báo mày thì bõ bèn gì
so với tờ Làng Văn: chúng nó đã làm số đặc biệt cho tao
từ lúc thằng Mai Thảo còn sống, từ lúc mày chưa mó được
vào tờ Văn kia đấy. À, mày bảo tờ Làng Văn là tờ báo
"chửi" chuyên vu khống anh em, sao bằng tạp chí văn học như
báo mày? Miễn là nó trọng vọng tao thì thôi chứ, sống chết
mặc chúng bay…
Liệu người đọc có chịu nổi
cái lối "mày mày tao tao" này (lại còn viết lại như Mai Thảo
đã làm) không? Lại tưởng tượng thêm rằng (theo kiểu suy
luận "nhà văn không có tuổi" của Nguyễn tiên sinh), cả làng
cứ mày tao tứ tung trước công chúng, ngay cả trong những
cuộc họp mặt, gặp độc giả, trong hồi ký thì không hiểu
rồi đi đến đâu? Không cần là một nhà văn, ai cũng có
thể hiểu trong giới văn chương, mọi người đều là anh
em, cho nên những cách xưng hô "chú, bác"…không bắt buôc
(sao mà Nguyễn Xuân Hoàng lại gọi Nguyễn Tuân là bác, giời
ạ!) Không bắt buộc vì không phải ai cũng bằng lòng với
sự xưng hô này, nhất là giữa hai người khác phái. Nhưng
không có nghĩa là suồng sã. Mà nếu có, tưởng nên giữ chỉ
trong vòng "đôi ta". Tình thân cũng như tình yêu, càng kín giấu
càng tốt. Khi đã có mặt người khác- trẻ hơn, đi sau- nhất
là khi những "người khác" ấy lại không cầm bút (như độc
giả) thì tránh đi. Viết ra như thế, phải chăng để khoe
khéo cái tình thân ấy? Chưa kể là ở trường hợp Mai Thảo,
người ta không có cách nào kiểm chứng được vì Vũ Hoàng
Chương không còn sống nữa. Nhà văn đâu thể tầm thường
đến nỗi giở cái võ của những cô nàng lúc nào cũng không
bỏ qua cái dịp để thông báo cùng cả nước rằng "ấy nửa
đêm tối qua anh ấy còn cất công ra tận Hải Ký mua cháo
hoa cho tôi"?!
Riêng tôi, tôi không tin rằng nhà
văn có quyền đi ngược lại những đạo lý căn bản, những
phép lịch sự tối thiểu của con nguòi. Nhà văn có quyền
tự đặt cho mình một lề thói, kiểu cách riêng để sống.
Nhưng nhà văn không có quyền áp đặt cái lề thói, kiểu
cách ấy cho các nhà văn khác. Vì không phải nhà văn nào cũng
chấp nhận được cái lối ăn nói sỗ sàng khi có mặt một
ngưòi thứ ba. Mà dù Vũ Hoàng Chương có cho phép Mai Thảo
mày tao với ông đi nữa cũng chưa chắc đã cho phép Mai Thảo
đưa chuyện cho phép đó biểu diễn sau khi ông qua đời.
Trờ lại việc "Vũ chê thơ Ðinh"
như Võ Phiến phát giác ra, không hiểu Võ Phiến có biết rằng
nguyên bài nói chuyện ấy đã được đăng lại trong cuốn
Loạn Trung Bút của Vũ Hoàng Chương do nhà Khai Trí xuất bản
tại Sàigon năm 1970 không? Không hề có chuyện Vũ chê thơ
Ðinh như Võ Phiến đã buộc cho Vũ Hoàng Chương: bài nói chuyện
này chỉ để nói về thân thế nghĩa là chỉ cắt nghĩa về
những hoàn cảnh sống nào đã tạo nên thơ Ðinh Hùng:
-…Thật thế, Trung tâm Văn Bút
Việt Nam họp ban Thường-Vụ chiều ngày thứ tư 20 tháng trước
đã quyết định tổ chức một cuộc nói chuyện về thân
thế và văn nghiệp của nhà thơ quá cố họ Ðinh. Sự phân
công thật rõ rệt: tôi sẽ nói về thân thế, và văn hữu
Bàng bá Lân, tiếp đó, sẽ nói về văn nghiệp ÐINH-HÙNG…Nhưng
lần này được chỉ định nói về thi sĩ họ Ðinh, tôi lại
thấy ngại ngùng, muốn chối từ mà chẳng dám… E rằng quá
thương em xót bạn, tôi sẽ không tự kiểm soát được lòng
mình…Nhưng từ chối không thể được, tôi đành phải tự
nhủ:" Thâän trọng đấy nhé! Thận trọng và thận trọng
hơn nữa!…Ðừng chủ quan, chớ thần tượng hóa một con
người, kể cả trường hợp con người ấy mình vẫn coi là
thần tượng"… (Vũ Hoàng Chương, trang 166, 167,168, sđd)
Quyết là Võ Phiến không thể nào
" gặp cảnh Vũ chê thơ Ðinh" như ông đã "hí hởn" kết luận,
nhất là sau khi ông không hề dẫn chứng là ông căn cứ trên
cảnh nào trong bài nói chuyện này để kết luận như vậy.
Trong một buổi tưởng niệm mà Vũ Hoangø Chương đã nói rõ
là ông chỉ nói về thân thế Ðinh Hùng (còn phâàn "phân tích
kỹ lưỡng những yếu tố nào xây dựng thành giá trị của
thơ Ðinh Hùng, nghĩa là đứng trên quan điểm một phê bình
gia để soi sáng vào thi phẩm…"- Vũ Hoàng Chương, trang 199,
sđd" thì là phần việc của nhà thơ Bàng Bá Lân) thì đó
là lý do giải thích sự Vũ Hoàng Chương chỉ "nói về cái
tình mật thiết với bạn thì nhiều, nhưng về cái hay cái
đẹp của thơ bạn thì rất ‘thận trọng’ " (Võ Phiến,
sđd) chứ không như Võ Phiến cố ý bẻ quẹo đi.
Tôi dùng chữ "bẻ quẹo" với một
nhà văn như Võ Phiến mà không nặng vì người viết không
thể tự tiện gán cho một tác giả sự chê bôi văn chương
một tác giả khác -nhất là khi hai tác giả này đều đã
qua đời-bằng cách cố tình cắt xén nguyên văn để hướng
dẫn sai độc giả. Lời thuật của Thanh Nam càng không chứng
tỏ được gì hết vì Vũ Hoàng Chương cũng không hề chê
thơ Ðinh Hùng.
Võ Phiến còn "dọa" độc giả rằng
"tìm hiểu thái độ người bạn thân thiết Vũ Hoàng Chương"
(với thơ Ðinh Hùng) "không phải chuyện dễ". Khó gì đâu:
cứ dở lại Loạn Trung Bút (nhà Xuân Thu tái bản tại Hoa
Kỳ tháng 8, 1991) sẽ được đọc ngay những lời Vũ Hoàng
Chương phê bình thơ người bạn thân thiết Ðinh Hùng. Trong
bài "Bàn Tay Lực Sĩ" (Một Vài ý nghĩa về Thơ-Hôm-Nay), Sàigòn,
1962,Vũ Hoàng Chương rất tán thưởng thơ Ðinh Hùng:
-…tác giả ÐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ
không những thiện dụng thơ ca mà còn chế biến cả từ điệu…,
đề nghị một thế giới ảo diễm đầy nhạc đầy hương,
và đâáy cũng là một chiều hướng sáng tác của Thi ca hôm
nay. Văn minh cơ khí càng đắc thắng đời sống tinh thần
của nhân loại càng bị bóc lột; Con Người mỗi ngày một
nghèo đi. Mộng giải thoát sẽ cứu vớt người máy…"
(Vũ Hoàng Chương, trang 99, 100, sđd)
Còn nếu cắt nghĩa rằng không cố
ý "bẻ quẹo", chỉ không thể hiểu nổi (đến nỗi hiểu
lầm) một bài nói chuyện rất rõ ràng, đơn giản như của
Vũ Hoàng Chương thì còn…thể thống gì ở cái bộ sách đồ
sộ "vô song" này nữa?!! Thì làm sao còn vào nổi tâm thức
thơ của các thi sĩ mà phê bình?
III. BỘ MÔN KÝ
Nhã Ca và Giải Khăn Sô Cho
Huế.
Võ Phiến nhắc lại chuyện "anh
Ðắc nặng tình bạn lên núi tầm sư học đạo rồi theo giải
phóng trở về tìm bạn…" (trang 2051, sđd) trong Giải Khăn
Sô Cho Huế. Oâng cũng "mắng yêu" Nhã Ca "…Nhưng không biết
diễn biến rủi ro nào đã xui khiến sau hai năm suy tưởng,
lúc chấp bút thảo nên Giải khăn sô cho Huế, Nhã Ca lại
dùng tiêáng "Giải phóng" để gọi cộng quân, và không gọi
trong ý nghĩa mỉa mai" để rồi liền ngay đấy vỗ về, an
ủi rằng "…Từ Giải khăn sô cho Huế đêán tháng 4-1975 đã
hơn năm năm, từ Giải khăn sô cho Huế đêán hồi ký Một
người mất ngày tháng là hăm hai năm: trải bao dâu bể Nhã
Ca Giải khăn sô…không chừng là cô con gái của Nhã ca Hồi
ký một người…Gọi chung chung là Nhã Ca cả, đâu tiện.
Nhã ca Hồi ký có quyền mắng cô Nhã ca Khăn sô …là nông
nổi, bộp chộp…Thì ngay sau 1975, Nhã Ca đã bày tỏ thái
độ với Nguyễn Tuân. Oâng Nguyễn, giá gặp nhau bảy tám
năm trước, có thể được liệt vào hàng bác Giải phóng,
cụ Giải phóng. Sau này, ông bị Nhã Ca đánh chan chát. Oâng
Nguyễn hỏi Trịnh Công Sơn về Trần Dạ Từ "Ðang được
học tập ở đâu?" Thoáng nghe, Nhã Ca đã đốp chát ngay:"
cái gì mà học tập cải tạo. Anh muốn hỏi về ông chồng
tôi à? Tù thôi. Ði tù thì nói đi tù, việc gì phải dùng
chữ hoa mỹ." Cho nên tưởng chê trách thực không phải chê
trách là thế. Vì Nhã Ca già dặn mà trách Nhã Ca non nớt…"
(trang 2057, 2058, sđd)
Trước hết, là xét xem sau hơn hai
mươi năm, Nhã Ca của cuốn ký Hồi Ký của Một Người Mất
Ngày Tháng (xuất bản năm 1991, Hoa Kỳ) và cả những tác phẩm
sau đó có là chị hay là mẹ của Nhã Ca Giải khăn sô cho
Huế như Võ tiên sinh vẽ vời hay thực ra là giống hệt nhau,
là hai chị em song sinh, nghĩa là sau mấy chục năm mà Nhã Bà
(và Võ Oâng vẫn cứ …trẻ trè tre.) Sau khi đã xác định
được điểm này, ta sẽ bàn thêm về trách nhiệm của người
viết Ký, may ra giải được thắc mắc của Võ tiên sinh Nhưng
không biết diễn biến rủi ro nào đã xui khiến …Nhã ca lại
dùng tiếng "Giải phóng" để gọi cộng quân…(như đã dẫn
ở trang 2053)
1.Sự Bịa Ðặt Trong Cả Hai Cuốn
Ký : Giải Khăn Sô Cho Huế (trước 1975) và Hồi Ký Một Người
Mất Ngày Tháng (sau 1975)
Trong Ký, điều tối kỵ là bịa
đặt. Thậm chí, Võ Phiến còn trích ra định nghĩa trong cuốn
Từ điển văn học do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội in ở
Hà Nội :
" Tính chính xác tối đa là đặc
trưng cơ bản của ký" (trang 2248, sđd).
Vụ Nguyễn Ðắc Xuân (Ðắc) và
Trần Mậu Tý (Tý).
Một trong những việc mà Nhã Ca
bịa đặt có thể kiểm chứng được, liên quan đến Nguyễn
Ðắc Xuân ở cả hai hồi ký. Trong Giải Khăn Sô Cho Huế,
Nhã Ca dành gần hết chương 7, qua lời một nhân vật tên
Khâm, thuật lại cảnh (Nguyễn) Ðắc (Xuân) trở về Huế,
lôi người bạn (Trần Mậu ) Tý ra khủng bố hết sức dã
man:
-…Cậu bạn của Ðắc, tên Mậu
Tý , dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy
van Ðắc…Nhưng mặc Tý năn nỉ, hoan hô, Ðắc vẫn nhất
định nổ súng vào người bạn nhỏ (Tựa nhỏ:Viết để
chịu tội, sđd, trang 10,11, xuất bản tại Saigon, Việt Nam,
1969)
-…Ðắc đã tìm gặp được Tý.
Hắn bắt Tý đừng dưới một hố cá nhân rồi bắt đầu
hỏi tội và hành hạ. Ðắc xin các đồng chí Giải Phóng
có mặt ở đó được giải quyết mối thù riêng và các đồng
chí Giải Phóng đã không ai can thiệp. Tý đứng dưới hố,
cứ mỗi lúc Ðắc đưa súng lên nhắm vào trán Tý mà bóp
cò, Tý lại nhắm mắt, khuôn mặt lạnh lùng chờ đợi. Nhưng
rồi phát súng chờ đợi không nổ. Ðến khi phát súng chờ
đơiï nổ thì Tý vẫn không chết. Mỗi phát đạn cứ lướt
qua màng tang, qua đầu, qua bên vai và mỗi lần như thế Tý
đã lưu lại thế gian tiếng thét cuối cùng của nó. Sau đó,
Ðắc kéo Tý lên rồi dẫn đi…" (trang 368, sđd).
Cần lưu ý thêm một điều là ở
trang 376, Nhã Ca không hiểu thần hồn nát thần tính thế nào
mà viết luôn tên Xuân (thay vì Ðắc) ra:
-…Tôi thắc mắc không biết xác
của ai. Tôi nghĩ tới Tý. Cũng không có thể là Tý. Xuân đã
bắt đi, không dễ dàng gì cho hắn trả nợ thế…(chữ in
đậm là của người viết- sđd)
Nhưng sự thực ra sao: có đúng là
Xuân giết Tý sau khi đã bắn dọa rùng rợn như Nhã Ca diễn
tả từng ly từng tý thêm trong 4 trang trước đó (364-367) bằng
trò chơi Russian roulette không? Câu trả lời là không, ít nhất
là theo chính Nhã Ca và cả người bị kết tội là Nguyễn
Ðắc Xuân.
Trong Hồi Ký Một Nguòi Mất Ngày
Tháng hai mươi năm sau, Nhã Ca xác nhận lại là chỉ nghe kể
chứ không chứng kiến tận mắt viêäc Nguyễn Ðắc Xuân về
Huế hay giết Trần Mậu Tý:
-…Ðắc là sinh viên tranh đấu
cũ, sau bò ra khu. Năm Mậu Thân, nghe kể Ðắc theo quân Cộng
sản về Huế…Tôi có kể chuyện này trong Giải khăn sô cho
Huế. (trang 198, sđd, 1991- chữ in đậm là của người viết)
Có hai tài liệu quan trọng có thể
dùng để kiểm chứng việc này- và nhiều việc khác nữa-
là hai bài viết, một của Nhã Ca đăng trong Hồi Ký Một Người
Mất Ngày Tháng sau 1975, một của Nguyễn Ðắc Xuân có tựa
"Hậu quả của ‘cái chết’ của tôi" đăng lại trên tờ
Ðông Dương Thời Báo, số 69, ngày 30.7.1998, Houston, Texas, Hoa
Kỳ, cùng thuật lại cuộc gặp gỡ giữa hai người sau 1975
ngay tại quán bán hàng của Nhã Ca trên đường Ðồng Khởi,
Sàigon.
Ðây là phần Nhã Ca:
-…Khi anh ta bước vào, một tay
ôm cái cặp da, một tay ôm cái cặp giấy. Thấy anh ta lớ
ngớ, không chịu ngồi vào bàn, tôi bước ra.
"Chị không nhận ra tôi há? Chị
Vân?"
…Không nhớ. Lắc đầu. Cười
vậy…
"Xuân đây. Nguyễn Ðắc Xuân đây.
Huế nì"
Vẫn không nhận ra nét quen thuộc
nào…Anh ta cười xuề xòa:
"…Nãy giờ tôi đi qua đi lại mấy
lần, muốn vô thăm chị. Tôi đứng ở quầy bánh trước nhà,
mua mấy cái bánh, rồi mới vô…Chị khỏe không?"
…"Xin chị cho tôi một ly đen. Cho
phép tôi mời chị một ly?"
Không còn hình ảnh Ðắc của Mậu
Thân nữa. …
"Tôi muốn mời chị về lại với
Huế. Mời chị viết."
"…mời chị cộng tác với tờ
Sông Hương, tờ báo của Huế mình."
…Tôi không gặp lại Ðắc. Hai
năm sau, Từ ra khỏi trại tù. Một hôm đi về kể vừa gặp
một người ngoài đường. Anh ta gọi, quay lại, không nhận
ra. Lại giới thiệu…Ðành xưng thêm đầy đủ: Nguyễn Ðắc
Xuân. Có nói chuyện với nhau không? Từ nói có. Anh ta còm
cõi tội nghiệp …"
Nhã Ca khi sang bên này mới cho xuất
bản cuốn hồi ký có những giòng trên: quá khứ tưởng chỉ
có mỗi một Nhã Ca còn sống, còn viết. Bất đồ, mới đây,
Nguyễn Ðắc Xuân lên tiếng. Trong bài đã dẫn (trích trong
tập Cửa Sổ Giữa Tầng Lá Xanh) Nguyễn Ðắc Xuân viết rất
chi tiết về Thu Vân-tức là Nhã Ca-khi còn ở Huế, chưa bỏ
nhà vào Sàigon, Nhã Ca gặp Trần Dạ Từ ở Huế sau khi hai
người đã liên lạc với nhau kiểu "tìm bạn bốn phương"
một thời gian, Nhã Ca bỏ nhà vào Sàigon chung sống với Trần
Da Từ, hai cuốn ký bịa đặt về chuyện ông ta giết Trần
Mậu Tý …
Nguyễn Ðắc Xuân kể lại chuyện
tình cờ gặp lại Nhã Ca và đã hỏi bà này về chuyện vu
oan cho ông ta về việc Trần Mâu Tý trong cuốn Giải Khăn Sô
Cho Huế.
-…Các hoạt động của tôi ở
Huế, dân Huế biết, các đồng chí đồng sự của tôi hiện
đang sống đều biết rất rõ. Giữa một cuộc chiêán đấu
lớn lao, đông đảo như thế, tôi xử ai và tôi giết ai tôi
không thể làm một mình và chắc chắn 30 mươi năm qua những
đối tuợïng ấy không thể làm thinh trước dư luận báo
chí trong và ngoài nước. Tôi đã mở tòa án ở đâu và xử
ai?…Bẵng đi mấy năm không có dịp nhắc đến Nhã Ca nữa.
Rồi đến một dạo trước năm 1980 (tôi không còn nhớ đích
xác năm nào), tôi vào TP HCM…Tôi hỏi "Chị làm ơn bán cho
mấy cái bánh!" Người đàn bà đến mở nắp thẩu lấy bánh
cho tôi. Khi tay cô vừa chạm vào mấy cái bánh trong thẩu thì
như bị điện giật cô rút tay ra và chụp cái nắp nhôm chụp
xuống miệng thẩu cái cốp rồi quay lưng vô nhà. Tự nhiên
tôi kêu lên:
"Thu Vân, tại sao thấy moa, toa lại
bỏ đi?"
Người đàn bà quay lại nét mặt
thảng thốt:
" Tôi nghe người ta nói anh đang
tìm tôi để giết nên tôi sợ quá…!"
-"Vì chuyện nhân vật Ðắc toa viết
trong Giải Khăn Sô cho huế phải không?" Tôi hỏi và nói tiếp-"Chuyện
của nhân vật Ðắc có liên quan gì đến moa mà moa tìm giết
toa! Mà sao moa có giêát toa dễ dàng dến vậy?" Nghe thế có
lẽ Nhã Ca thấy đúng là con người thật của tôi khác với
con người cô tưởng tượng …cô lấy lại tư thế bình thường.
Cô không mời nhưng tôi vẫn kéo ghế ngồi. Thu Vân miễn cưỡng
ngồi vào ghế đối diện tôi. ..Ðến khi câu chuyện trở
nên thân tình, tôi hỏi thật cô:
-Vì sao năm 1968 Thu Vân lại viết
về nhân vật Ðắc để ám chỉ tôi như thế?
Thu Vân trả lời rất thành thật:
-Lúc đó ai cũng nói anh chết rồi,
ai ngờ…
-Sao Thu Vân lại nỡ dựng chuyện
ác cho em một người bạn mình như thế? Tôi hỏi với giọng
trách móc.
-Như anh biết đó-Thu Vân giải thích-viết
ký thì phải có những con người bằng xương bằng thịt mình
biết rõ ràng mới hay, chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền
Bắc vào nào tôi có biết ai đâu?
-Té ra như vậy.
Sở dĩ có chuyện không tốt ấy
xẩy ra là vì nhiều người tin tôi đã chết. Hồi tháng 10.96,
trong bữa cơm thân mật ở nhà chị Trà My-anh Phạm Doãn Ðể
ở quận 19 thủ đô Paris tôi kể lại chuyện gặp lại Nhã
Ca trên đường Ðồng Khởi trên đây, hai anh chị cười vang:
-"Thế mà bao năm nay, anh chị cứ
trách Xuân!"(bđd)
Chính Nguyễn Ðắc Xuân cũng không
rõ Tý chết trong trường hợp nào:
-…Hơn một năm sau tôi mới nghe
tin T. đã chết trong tết Mậu Thân. Những khi gặp những người
quen biết T., chúng tôi thường đưa ra mấy giả thiết về
trường hợp T. chết như sau…(bđd)
Sở dĩ Nhã Ca sai lầm vì đã dựa
vào một chi tiết có thực: ấy là việc Nguyễn Ðắùc Xuân
bắt Trần Mậu Tý "xuống hầm cá nhân ngồi":
-…đội công tác thanh niên chúng
tôi đang đào hầm trú ẩn cá nhân ….có người dẫn độ
T. vào gặp tôi. Thâáy tôi,…T….ôm tôi và nói:
-‘Bọn tự vệ bắt mình, mình
nói là bạn của X., nên họ đưa mình qua đây!".
…T đặt tôi vào một hoàn cảnh
rất khó xử. Giả như tôi không giận T mà sau lưng tôi là
anh Hoàng Minh Loan, chính trị viên của đôäi công tác thanh
niên…tôi không thể tỏ ý thân thiện với T. lúc này được….tôi
sẽ bị tình nghi quan hệ với địch và sẽ bị tống cổ
lên rừng ngay, …Bản năng tự vệ trong tôi buộc tôi phải
la lên:
-"Tao là bạn của mày được sao!"
Tôi chỉ hầm cá nhân đang đào dang dở trước sân nói tiếp
"Chuyện chi còn có đó. Xuống ngồi dưới hầm cá nhân đó!…Tôi
đưa cho T một xấp giấy manh bảo qua nhà anh Vĩnh Tháp…Nhưng
sau đó chúng tôi bị căn cứ Mang Cá rót đạn cối vào nhà,
phải di chuyển ngay chỗ ở. Và tôi cũng không còn dịp gặp
lại T. nữa. .."
Chính vì chi tiết "hầm cá nhân"
này mà Nhã Ca đã bịa ra nguyên bốn trang về việc Nguyễn
Ðắc Xuân chơi trò Russian roulette trước khi giết Tý.
Bởi thế, Nguyễn Ðắc Xuân đòi
hỏi Nhã Ca phải đính chính:
-…Ðến nay ở nước ngoài có lẽ
Nhã Ca có thể viết rõ ra để chứng minh tính chân thực của
cuốn sách…Cái chết của T . cũng thế. Nhưng vì Nhã Ca đã
không viết đúng sự thực, nếu tôi không viết thêm đoạn
này thì người đọc trong các thế hệ sau sẽ khó có được
một tư duy đứng đắn về sự kiện này." (bđd)
Ðọc xong cả hai, người ta cảm
thấy câu chuyện Nhã Ca thuật lại có lắm điều không ổn
mà điều vô lý nhất là việc Nguyễn Ðắc Xuân mời Nhã
Ca cộng tác với tờ Sông Hương để Nhã Ca có thể khoe tài
"bất khuất" nói xiên nói xỏ cộng sản để từ chối. Lúc
xẩy ra cuộc găëp gỡ này là "trước năm 1980", nhà nước
chưa "cởi trói" cho văn nghệ, làm sao một nhà văn, nhất là
một nhà văn miền Nam như Nhã Ca, có chồng đang đi tù vì
nhận là CIA, lại được mời viết ở tờ Sông Hương là
một tờ "nặng ký" ở Huế? Nhưng lộ nhất là câu "Không
còn hình ảnh Ðắc của Mậu Thân nữa. Anh ta ngồi, hiền
lành, hình như còn đôi chút bối rối nguợïng ngùng.."
Giữa hai người, Nhã Ca phải là
người bối rối thì đúng hơn vì tự trong thâm tâm bà ta
hiểu rằng chuyện công khai gán cho Nguyễn Ðắc Xuân đầy
những chi tiết ác độc này chỉ được nghe lại sau khi nhiều
người tưởng nhầm anh ta đã chết. Càng vô lý hơn là Nhã
Ca lại "không nhận ra nét quen thuôäc nào" lúc gặp lại Nguyễn
Ðắc Xuân dù anh ta là em trai của người bạn mình?! Nên để
ý đến chi tiết mà Nhã Ca viết sau đó: cả Trần Dạ Từ
cũng không nhận ra Nguyễn Ðắc Xuân: làm sao cả Nhã Ca và
Trần Dạ Từ lại có thể "quên" được một người từng
cho mượn chiếc giường bố để hai người "yêu nhau thật
sự" được nhỉ?! Hay vì "sợ" nên cả hai người đều không
dám nhận ra để dễ "bỏ đi" đúng như lời kể của Nguyễn
Ðắc Xuân?
Trái với lời Nhã Ca, theo cách viết
của Nguyễn Ðắc Xuân, người đọc thấy ngay anh ta là một
người cộng sản trung thành và cho đến bây giờ cũng còn
rất coi thường (dùng chữ "khinh miệt" thì đúng hơn) thái
độ chính trị, đời sống và "tài năng" văn chương của
cả Nhã Ca lẫn Trần Dạ Từ:
-…Tôi gặp Thu Vân ở nhà chị
tôi ở đường Chi Lăng nhiều lần. Cô không đẹp, khuôn măt
hơi nặng nên bọn em trai của chị tôi cùng thế hệ với
cô lúc ấy ít người để ý đến cô…Phương Nam (tức là
Hoài Nam, bút hiệu trước của Trần Dạ Từ-chú của người
viết) về nhà Ngô Ðức Chương một nguòi bạn làm thơ ở
với mẹ gia tại ngõ hẹp của đường Ngô Ðức Kế trong
Thành Nội. Nhà chật có khách thơ, Chương mượn tôi cái giường
bố cho Phương Nam nằm…Về sau, có lẽ hối hận về hành
động phũ phàng của mình. Thu Vân đã tìm đến Phương Nam
va hai người đã yêu nhau thật sự ngay trong nhà Ngô đức
Chương. Sau đó Thu Vân bỏ học vào Nam vói Phương Nam và hai
người có hai bút hiệu mới là Trần Dạ Từ và Trần Thy
Nhã Ca…mùa hè năm 1966, Trần Dạ Từ ra Huế tiếp tục nói
xấu phong trào miền Trung bị anh em sinh viên quyết tử chận
lại tại sân bay Phú Bài và buộc anh phải rời miền Trung…Sau
1975, về lại Huế…(3.1976) nhiều người đặt bài cho tôi
viết lên án Nhã Ca. Tôi từ chối. …:dù sao Nhã Ca cũng là
bạn của chị tôi, nỡ nào tôi lại đánh người dưới ngựa
bạn của chị mình…" (chữ in đậm là của người viết-
Cho thấy Nguyễn Ðắc Xuân không hề kính trọng gì Nhã Ca
cả)
Ðời nào có chuyện anh ta phải
khúm núm, gặp nhau xun xoe chào hỏi trước như Nhã Ca đợi
chạy tuốt sang Mỹ rồi mới tả tình tả cảnh? Sao không
dám làm như Dương Thu Hương, là viết ngay ra và cho công bố
những trò này-nếu có- ngay tại Sàigon? Sang đến đây thì
có vẽ rắn thêm vài chục cái chân nữa cũng chẳng ai hay,
mà biết đâu lại có bậc thức… giả vội vàng ôm chầm
ngay vào để khen lấy khen để là đánh chan chát, kêu coong
coong! Cho nên, nếu đã tự hào như Võ Phiến "Ký ấy thật
khác với ký miền Bắc trong cùng một thời kỳ…Mất cái
đặc trưng cơ bản (tính chính xác tối đa- chú của người
viết, như đã dẫn), ký dễ biến ra ký giả…" thì chúng
ta không thể cứ bênh vực người viêát của miền Nam, của
chúng ta một cách mù quáng vì cái công nghĩa là cái khác biệt
giữa người miền Nam và nhà cầm quyền miền Bắc. Qua bài
viết của Nguyễn Ðắc Xuân, tôi có cảm tưởng rằng anh
ta quả đã có tham dự vào những cuộc giết người ở Huế.
Nhưng hành hạ, khủng bố tinh thần Trần Mậu Tý trước khi
giết như Nhã Ca đã gán cho anh ta thì không. Tệ hại hơn nữa
là thái độ huênh hoang với những chi tiết hoàn toàn bịa
đặt của Nhã Ca về cuộc gặp gỡ anh ta sau 1975: Nhã Ca còn
không nêu ra được thời điểm của cuộc "tái ngộ" này trong
khi Nguyễn Ðắc Xuân viết rất rõ, với nhân chứng về những
chuyện liên quan đến Nhã Ca (và cả Trần Dạ Từ) truóc và
sau 1975. Tôi thực tiếc Nhã Ca đã tự gây thiệt hại cho đời-viết-ký
của mình bằng sự không công khai nhìn nhận sai lầm (ở Giải
Khăn Sô Cho Huế) và tiếp tục sự bịa đặt ấy một cách
"vĩ đại" hơn (ở Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng).
Hai cuốn ký song sinh.
Võ Phiến kết luận rằng cuốn
ký thứ hai của Nhã Ca đã "già dặn" hơn cuốn trước, căn
cứ vào sự tỉnh ngộ tương tự của học giả Nguyễn Hiến
Lê và chuyện Nhã Ca bày tỏ thái độ với …Nguyễn Tuân!
Tưởng là bày tỏ thái độ với Ðỗ Mười: cụ Võ làm độc
giả mừng hụt nhá! Cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế có những
câu những đoạn chửi rủa người lính miền Nam, ca ngợi
lính chính quy miền Bắc. Ðây là một đoạn tiêu biểu:
-…Tôi nhớ lại khuôn mặt anh lính
giải phóng gác nơi cầu khi chúng tôi di qua. Một anh lính Bắc
Việt ngờ nghệch, anh nhìn ai cũng ra bọn Mỹ Ngụy hết. Anh
la hét, cấm đoán rồi cuối cùng mọi người cũng chạy được
qua cầu. Tôi nghĩ chắc anh không trông thấy gì ngoài đàn
ông, đàn bà, con nít chạy loạn, còn bọn Mỹ ngụy chỉ một
đêm nổ súng là chết hết rồi…(Giải Khăn Sô Cho Huế,
trang 182, 183- chữ in đậm là của người viết)
Có cần lời bàn nào không?!
Chỗ yếu nhất của Võ Phiến trong
phần này là sử dụng Nguyêãn Hiến Lê để bào chữa cho
sai lầm của Nhã Ca:
-Tại sao đánh nhau? Ai phải ai trái?
Không phải một anh lính trẻ. Mà một học giả đầy ưu tư
đối với dân tộc-ông Nguyễn Hiến Lê-cũng từng nghĩ quấy.
Trước sau năm năm, thực tại được chứng kiến đã làm
ông Nguyễn Hiến Lê đổi hẳn thái độ…(sđd)
Nguyễn Hiến Lê đổi hẳn thái
độ bằng một tập Hồi Ký vạch rõ những sai trái, tàn ác
của cộng sản và gửi ra ngoại quốc cho in. Ðây là một
tài liệu vô cùng quý giá cho những thế hệ đi sau vì có
đầy đủ chi tiết về tình trạng miền Nam và Việt Nam dưới
chế độ cộng sản: những lần đốt sách, đổi tiền, bắt
bớ …làm điêu đứng cả nước. Ðiều đáng chú ý là bản
thân Nguyễn Hiến Lê không bị bắt bớ đâày ải nhưng bổn
phận một người cầm bút khiêán ông chính thức, công khai
xác nhận lỗi lầm của mình và dành cuối đời cho việc
ghi lại những sự việc mà ông cho rằng rồi ra đảng cộng
sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm về sự suy thoái của
cả dân tộc.
Trong khi ấy, cuốn Hồi Ký Một
Người Mất Ngày Tháng xuất bản năm 1991, sau khi tác giả
ra khỏi Việt nam, chỉ đầy những bịa đặt, giả trá nhắm
thổi phồng tác giả. Võ Phiến có thể tán thưởng cái "đốp
chát", cái "đánh chan chát" của Nhã Ca với Nguyễn Tuân. Tôi
thì nghĩ khác: tưởng là đốp chát, chan chát với ai, chứ
với một nhà văn già lọm khọm từng vừa nuốt nước mắt
vừa thổ lộ: "tôi còn sống được đến ngày này chỉ vì
biết sợ" thì nói làm gì? Có vẻø vang gì cho cam? (Chưa kể
một người dám nói câu đó thì mới không biết sợ là gì)
Nhã Ca có dám chan chát với…Tố Hữu thử?!
Tôi còn có cảm tưởng bất nhẫn
là những nhà văn miền Nam (nhất là những nhà văn miền Nam
như Võ Phiến, người có may mắn rời miền Nam nửa tháng
trước khi miền Nam mất) càng không nên "vỗ tay chan chát"
khi thuật lại những chuyện này: Nguyễn Tuân không phải Tố
Hữu hay Trần Bạch Ðằng, Chế Lan Viên. Nếu họ chống lại
được, chúng ta khen mà không thì cũng chẳng nên dè bỉu:
chắc gì mình giữ được lòng son sắt, không quỵ gối, không
đầu hàng nếu bị đe dọa khủng bố như Nguyễn Tuân? Vì
nếu dè bỉu Nguyễn Tuân, Võ Phiến sẽ phải giải nghĩa ra
sao về việc Trần Dạ Từ nhận là làm việc cho CIA khi cộng
sản bắt ông sau 1975? Liệu chúng ta có nên đem chuyện đó
ra gán cho ông cái họ sợ như Võ Phiến từng làm với Nguyễn
Tuân?
Vo õPhiến cũng bào chữa thêm rằng
Nhã Ca cũng "non nớt như 90% người miền Nam, theo ước lượng
của ông Nguyễn Hiến Lê" nhưng Võ Phiến quên rằng "90% người
Miền Nam" không vu oán cho người khác hay tiếp tục vu oán
cho người khác như Nhã Ca. Hơn thế nữa, Nhã Ca còn tiếp
tục nguyền rủa miền Nam bằng cách đăng lại trên Hồi Ký
Một Người Mất Ngày Tháng những bài báo hay qua phỏng vấn
rằng Miền Nam là một miền đất mà đã "văn hóa tuột dốc,
chịu khổ ải dưới (ảnh hưởng của Hoa Kỳ đến nỗi)
…con gái trong nhà biến thành đĩ điếm và gái bao ngắn hạn…"(trang
518, sđd)
Ðó là những tin tức sai hoàn toàn
mà nhà văn Võ Phiến không thể ngó lơ được khi đã xếp
nó vào Ký, nhất là khi muốn dùng nó để bênh vực cho Giải
Khăn Sô Cho Huế.
Tôi chỉ cần đưa ra ba thí dụ
điển hình: thí dụ thứ nhất là việc "quảng cáo" rằng
Trần Dạ Từ phải đi tù nhiều năm "như những tù nhân chính
trị". Sự thực Trần Dạ Từ đi tù nhiều năm vì tự nhận
là làm việc cho CIA như dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu viết
rất rõ trên Khởi Hành.
Thí dụ thứ hai là việc Nhã Ca
tuyên bố với tờ The New York Times, đăng trên số ngày 19 tháng
11. 1973 là "chính phủ Sàigon có lúc đã tịch thu sách của
bà…" (The Sàigon government has on occasion seized books of her…"-trang
518, sđd, chữ in đậm là của người viết)
Những lời dối trá loại này không
những được đăng lại đầy đủ cùng nhiều lời mạt sát
miền Nam khác mà lại còn được trích ra in ngay ngoài bìa
cuốn Hồi Ký của Một Người Mất Ngày Tháing "…Về phía
chính quyền miền Nam thời đó, mặc dù từng được giải
thưởng Văn chương Quốc gia, bà vẫn bị chính quyền Sàigon
đưa ra tòa nhiều lần vì các bài viêát chống lại họ" (Tom
Hansson, nhật báo Svenka Dagbladet, ngày 19. 4. 1987, đăng lại
trên Hồi Ký Môä Nguòi Mất Ngày Tháng trang 529)
Những lời vu cáo này cũng lại
được xuất hiện như một lời quảng cáo cho một cuốn khác
mới xuất bản đây, cũng ngoài bìa sau (Chớp Mắt Một Thời).
Là một công chức làm tới chức
Chánh sở tại Bộ Thông Tin trước 1975, là một người trong
giới nhà văn, nhà văn Võ Phiến cắt nghĩa ra sao về những
sự man trá này trong một cuốn mà ông gọi là Ký? Oâng đọc
không kỹ hai cuốn ký mà ông phê bình hay ông đồng ý với
Nhã Ca? Nếu ông đồng ý thì chứng cớ đâu (cuốn sách nào
của Nhã Ca bị tịch thu và tác giả chúng ra tòa nhiều lần-
vì viết bài chống chính phủ Saigòn ngày nào…)?
Thí dụ thứ ba là lời vu cáo Nguyễn
Ðắc Xuân lập lại ờ Hồi Ký (cuốn 2) đã được quảng
cáo trên môät cuôán khác , Sàigon Cười Một Mình, trang 261,
xuất bản tháng 8, 1990, Hoa Kỳ.
Người ta dĩ nhiên không ngạc nhiên
gì về thái độ của Nhã Ca, nhưng sự thiếu sót của nhà
văn Võ Phiếân có thể làm người ta sửng sốt. Chính vì
sự thiếu sót này mà Võ Phiến phải băn khoăn về "sự rủi
ro" nào trong cuốn hồi ký thứ nhất.
2/ Rủi Ro hay Cố Ý?
Nếu xét toàn bộ truyện, thơ và
ký của Nhã Ca, người ta sẽ không có lý do gì để kết luận
những bước "hụt" này của Nhã Ca là một sự rủi ro: Nhã
Ca là một người viết không cẩn thận và đúng như Võ Phiến
nhận xét, "bù lu bù loa". Nhiều truyện của Nhã Ca trùng lập
cùng một số chi tiết (nghĩa là cũng song sinh như hai cuốn
ký), đa số lại sử dụng cùng một cách mở (kết thúc) là
những cái chết hay những bức thư đến quá muộn. Truyện
của Nhã Ca là thứ truyện đọc không cần phải chăm chú:
người ta có thể lược bỏ vài trang cũng chăúng hề gì.
Sự trùng lập ấy còn khiến người ta có cảm tưởng rằng
Nhâ Ca không biết gì về kỹ thuật viết truyện: may được
một cuốn thành công thì cứ theo cái công thức ấy mà viết
tiếp, chỉ thay đổi tên nhân vật. Cho nên truyện Nhã Ca không
có chiều sâu, không lưu lại chấn động nào vĩnh viễn. Ngay
cả một truyện mà Nhã Ca đặt nhiều tâm trí vào sau nhiều
năm viết truyện, Trăng Mười Sáu- cuốn thứ hai mươi tám
trong đời viết văn- rủi thay, cũng ..y như tên đặt của
nó, là rất văn nghệ hiệu đoàn, rất …mười ba, mười
bốn, mười lăm, mười sáu..
-…Mỗi thời đại văn chương Việt
Nam hình như đều có một truyện về loại tình yêu chú cháu.
Thời tiền chiến Khái Hưng viết cuốn Ðẹp…Lần này với
cuốn Trăng Mừơi Sáu, tình yêu này được mô tả qua cái
nhìn liều lĩnh vô tội của một cô bé vừa mười sáu tuổi…(Nhã
Ca, Phút Nói Thật, Nguyễn Mai phỏng vấn, Văn tháng 7, 1973,
Sàigon, Việt Nam)
Trong cách xếp đặt, Trăng Mười
Sáu có nhiều điểm giống với Ðẹp: "chú Hiên" (TMS) là một
nhà văn; "chú Nam" là một họa sĩ, nghĩa là không phải những
ông chú chán phèo, chân chỉ hạt bột, chán như cơm nếp nát.
Oâng chú này là bạn của bố. (Trong Yêu của Chu Tử, Ðạt
là một ông giáo). Cô bé Lan của Ðẹp và cô bé Gia Lai của
Trăng Mười Sáu đều có những cô em hay cô chị cũng thân
thiết, quấn quýt với ông chú. Nhưng ở Trăng Mười Sáu,
mối tình Gia Lai hoàn toàn một chiều: chú Hiên yêu người
chị, dẫn đến sự tự tử của người chị này sau khi gia
đình cấm cản và lá thư Hiên gửi cho Trúc rủ bỏ nhà trốn
đi nhờ Gia Lai chuyển bị Gia Lai đốt mất. Trái lại, trong
Ðẹp, Lan lấy được chú Nam.
Ðây là chỗ "tách" ra của Trăng
Mười Sáu và so vói Ðẹp, cũng là sự non nớt của tác phẩm
này. Ở Trăng Mười Sáu, kết thúc có thể đoán được, không
có gì mới lạ (chú không yêu cháu). Ở Ðẹp, cuộc hôn nhân
của Lan và Nam chiếm trọn hơn nửa phần sau cuốn sách: Khái
Hưng có chủ ý đấy. Chủ ý của Khái Hưng không chỉ là
một mối tình chú cháu như Nhã Ca tưởng lầm. Bởi thế,
không phải tự nhiên Khái Hưng lại dựng nhân vật -chú ùNam-
là một họa sĩ.
Mối tình khác thường (chú cháu)
của Lan và Nam chỉ để làm nền cho một vấn đề sâu xa
hơn: với các người sáng tạo, liệu tình yêu buổi đầu-
dù tình yêu ấy phải vượt qua những cổ lệ thông thường,
gần như cấm kỵ - khi biến sang hôn nhân liệu có còn giữ
được những cảm xúc mới mẻ, dồi dào để người ta tiếp
tục sáng tác? Hay cái vòng thê tróc tử phọc sẽ làm người
ta cùn mằn và giết luôn cả tình yêu đó đi? Liệu nguồn
cảm hứng-người yêu- sẽ còn nguyên vẹn ("Trong một giây
cái hy vọng lớn lao hiện ra, rõ rệt, to tát: Lan sẽ mãi mãi
là nguồn cảm hứng của chàng, khi Lan đã là vợ chàng cũng
như khi Lan hãy là hôn thê của chàng" trang 82, Ðẹp) hay sẽ
biến thành một "bà sư tử ghen lồng lên" (Ðẹp, trang 97)
hoăëc một người vợ chịu đựng, cái chịu đựng chỉ làm
người chồng bẳn gắt thêm, vì sự ràng buộc vô hình trói
chặt?
-…Mà dẫu cho chúng ta thành thực
yêu nhau nữa, thiết tưởng chúng ta cũng nên vì nghệ thuật
mà hy sinh ái tình của chúng ta. Ràng buộc một nghệ sĩ vào
trong gia đình tức cũng như đem cây đa mà trồng vào môät
chiêác châäu sứ. Cây sẽ cằn cỗi, không nẩy nở được
mà cái chậu sứ có khi bị nứt vỡ…(trang 79, Ðẹp)
Ðó là câu Nam nói với Lan chỉ
một ngày trước khi nhờ anh hỏi Lan cho mình. Và ngay lập
tức, chỉ sau vài tháng ngắn ngủi, sự lo sợ của Nam biến
thành sự thật: Lan trở nên ghen tuông vô cớ và nếu không
có Trinh- người bạn gái bị nghi ngờ-đủ thông minh để
tỏ cho Nam biết không phải cô cháu nào cũng yêu ông chú,
bạn của bố mình, thì chưa biết cuộc hôn nhân của Lan và
Nam có tồn tại được không.
Khái Hưng, một nhà văn tinh tế
mà mỗi tác phẩm là một câu hỏi về đời sống (Vọi, Tiêu
Sơn Tráng sĩ, Nửa Chừng Xuân…) không chọn Ðẹp để làm
tên cho cuốn truyện một cách vô cớ: ông chọn Ðẹp để
nói về cái đẹp của nghệ thuật, một cái đẹp trừu tượng
lấy cảm hứùng rất nhiều ở một cái đẹp cụ thể khác
(người đàn bà) nhưng liệu hai cái đẹp này có sống chung
nổi, song song bên cạnh nhau không? Câu trả lời là không.
Sự thắc mắc chung ấy thể hiện
ra ở cuộc đời nhiều nhà văn, nhà thơ không chỉ ở Việt
Nam. Cô nàng Laura (tên thật Olga Ivinskaya) trong Doctor Zhivago,
nguời tình và nguồn cảm hứng của Boris Pasternak, đã có
lần phải nói:
-… As a poet, he was ruled by his "passion
to break free’ (Olga Ivinskaya, Captive of Time, dịch bởi Max Hayward,
trang 25, nhà xuất bản Doubleday, Hoa Kỳ, 1978)
Mấy chục năm sau khi Ðẹp xuất
bản, Trăng Mười Sáu - lại của một nhà văn nữ - hoàn toàn
chỉ là một chuyên tình của một cô bé mới lớn. Không có
gì mới, không có gì khác. Mà quan trọng hơn hết thẩy, nó
không thể được nhắc đến như một thứ "con tương cận"
với Ðẹp như Nhã Ca đã lầm vì tình yêu chú cháu trong Ðẹp
chỉ là một yếu tố cực đoan để làm nổi bật toan tính
của tác giả (như tôi đã dẫn.) Lầm như thế, nghĩa là không
đủ hiểu biết để thẩm thấu văn chương.
Về thơ, như tôi đã chứng minh,
một trong những bài thơ làm nên tên tuổi Nhã Ca (Ðàn Bà)
lại là một bài thơ "trộm" từ bản dịch Kinh Thánh Tin Lành.
Võ Phiến không nhắc tới chuyện này trong tập "Thơ" khi viết
về Nhã Ca là quyền của ông. Nhưng chính Nhã Ca sẽ rất "khó
ăn khó nói" với độc giả khi đã bị chứng minh là "cố
tình đảo lộn một vài chữ, ý để nhận vơ là của mình"
("Ðẹp như mặt trăng" đổi thành "đẹp như mặt trời" còn
"tinh sạch như mặt trời" đổi thành "tinh khiết trong như
trăng")…" (Nhà Văn Như Người Hướng Dẫn Dư Luận) Tôi cũng
đã dẫn một số những chữ rất đặc sắc khác mà Nhã Ca
"trộm" của cụ Phan Khôi (Phan Khôi là một trong những người
dịch Kinh Thánh Tin Lành) như "người nữ, ái tình tôi…" Cả
cái ý tưởng "cám ơn Thượng Ðế cho tôi đôi vú" mà Võ
Phiến nức nở khen ngợi là cũng không có căn cứ, chưa kể
cái tội nói hộ Thượng Ðế: làm gì có chuyện Thượng Ðế
phải giật nẩy người vì có đứa thân mật, bình đẳng
với mình như Võ tiên sinh múa bút quá đà? Sự không lương
thiện ấy kéo dài luôn tới thời gian gần đây (Hồi Ký Một
Người Mất Ngày Tháng).
Cho nên nếu xét đủ truyện, ký
và thơ của Nhã Ca -như đã chứng minh- thì sẽ không có gì
ngacï nhiên về sự non nớt dẫn đến rủi ro trong ký hay sự
nghèo nàn trong thơ (trộm Kinh Thánh dịch), trong truyện (nội
dung nhiều truyện giống nhau), được chuyên chở bỏi một
thứ văn phong mà chính Võ Phiến nhận xét rất đúng là bù
lu bù loa của tác giả.
[Tạp Bút 2]
|