I. THÀY PHÁP
THẪM MỸ
Ở cái tỉnh lî nhỏ xíu Little
Saigon chỉ làm một bài tính cộng sơ sơ cũng thấy có một
thứ hàng rất chạy, gần bằng hàng ăn, là hàng sửa sắc
đẹp: gần 40 cửa tiệm của các ông thầy pháp Tây Y bảo
đảm biến chúng ta thành những ông bà hàng xóm: những đôi
mắt to trô trố, nhũng vòng số 1 vĩ đại, những cặp má
chưa cười đã hở mười nụ...đồng tiền giả. Những đồng
tiền này thường nằm trên những vị trí rất khả nghi như
gần căèm hay sát khóe môi. Bình thường những quảng cáo
này không làm chúng ta khó chịu lắm: người ta đã châáp
nhận chúng như một thứ "phụ tùng" xẩy ra ở đời sôáng
tî nạn vốn đã có nhiều buồn hơn vui. Xét cho cùng, cũng
chẳng đáng tội lắm cái ý muốn không muốn làm bà .ba bị
(hai bị dưới mắt, một bị dưới cằm) để dọa trẻ con.
Nhưng có những lời quảng
cáo của những người đại diện các ông thầy pháp này cần
nên xét lại vì sự .coi thường độc giả của chúng, như:
" Muốn đẹp lộng lẫy tự nhiên." và "sắc đẹp
cho chúng ta sự tự tin yêu đời." vv và vv.Nếu "tự
nhiên" sao lại cần nhờ đến các ông thày giải phẫu
nhỉ?! Nếu quả thật từ một cô nhan sắc thường thường
bậc trung thành một cô "lộng lẫy" thì cái nhan sắc ấy
sau khi làm đủ những trò cắt xén, thêm đầu này, bớt đầu
kia.không cách nào gọi là "tự nhiên " được. Câu sau càng
khả nghi hơn "sắc đẹp cho chúng ta sự tự tin yêu đời."
Làm sao mà tự tin nổi khi trong lòng cứ thấp thỏm người
ta đã biết tỏng những hàng họ mình bày ra chỉ là hàng
giả, hàng đi mượn, hàng bị cắt xén? Vì chỉ có những
người không tự tin chút nào mới phải ỷ lại vào
săéc đẹp mà khốn nỗi lại là một cái sắc đẹp
.giả? Làm sao "yêu đời" được khi cứ phải bán tin
bán nghi không hiểu khi nào sẽ phải tới gặp các thày thuốc
về ung thư (vòng số 1) hay không bao giờ biết được người
ta yêu mình vì "mười thương" hay chỉ vì những của giả
này?
Có quảng cáo còn kinh hãi hơn
nữa khi người ta được đọc một câu nguyên văn như sau:
"Không ai được quyền xấu nữa. Mọi người phải đẹp.
Phép lạ đã xẩy ra tại Văn phòng bác sĩ YYY." Không hiểu
cái chữ "xấu" ở quảng cáo này có nghĩa gì? "Xấu" như Thị
Nở hay "xấu" như biết là của giả, là đồ mạo hóa mà
vẫn vì dollars để quảng cáo những điều không có thực?
Nói tới "phép lạ" thì càng coi thường độc giả và Thượng
Đế nữa. Có thứ phép laï nào mà lại dính dáng tới
thuốc mê để cho khỏi đau và tốn rất nhiều tiền như thứ
phép lạ của các ông thầy pháp này?! Có thứ phép lạ
nào lại xẩy ra ở những nơi mà con người hạ phẩm gía
mình xuống một chỗ vô cùng thâáp là cắt xén chính thân
thể mình để tự dối mình và dối người? Nhưng cao siêu
hơn một bực -vì có lẽ nghĩ rằng quảng cáo thì lộ liễu
quá chăng- nên người ta lại có dịp đọc những bài báo
(không có tên tác giả) khéo léo lồng thứ dịch vụ này vào
giữa những thứ linh tinh khác:
-.Khó ai có thể tưởng tượng
dược những việc mà XXX có thể làm. Ít ai biết cô
XXX còn có thể làm một. tiû thứ khác, những thứ mà rất
ít người đàn bà nào biết làm [...] Cô XXX còn làm việc
với trên 20 bác sĩ Mỹ -Việt giải phẫu thẩm mỹ. Cũng là
bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ nhưng có người làm mắt đẹp
lại không làm mũi đẹp. Có người làm cằm đẹp mà không
sửa ngực đẹp. Có người lại chuyên môn căng da hoặc hút
mỡ.Cô XXX có sự hiểu biết rất rõ về tài năng chuyên môn
của từng vị một và cô giới thiệu khách hàng tới đúng
vị bác sĩ mà họ cần.(một tờ nguyệt san ở Nam California)
Tôi đọc đến đây thì sửng
sốt, cứ tưởng rằng một người mà được ca ngợi là
có
thể làm một tỷ thứ khác, những thứ mà rất ií người
đàn bà nào biết làm",
khó ai có thể tưởng tượng
được thì hẳn phải là .phi hành gia
(mà không phải
là người
phi hành rán mỡ để xào rau muôáng) hay
tiểu thuyết gia (tức là người viết chứ không phải
người đọc tiểu thuyết) hay xoàng lăém thì cũng phải
là luật gia (người làm luật phạt vạ những anh -hay
chị- dùng ngòi bút để tán nhảm câu cơm). Hóa ra chỉ là
"huê hồng gia" (người đứng trung gian để ăn tiền
"huê hồng")!!! Những "khách hàng" tương lai này không hiểu
có rợn tóc gáy lên trước cái viễn tượng rất rùng rợn
là họ sẽ được các "huê hồng gia" diễu đi từ ông thầy
pháp này sang ông thầy pháp khác để có đầy đủ những
cái "đẹp" này không?
Nhưng người ta chắc chắn
phải rùng rợn trước sự công khai ra tuyên ngôn, hăng hái
cổ võ, xem như một điều đáng hãnh diện về việc sửa
đổi những bộ phận-nhất là những bộ phận vẫn được
coi là thầm kín- của phụ nữ. Phụ nữ -vâng, một .tỷ
phụ nữ còn lại, cái "tỷ" làm nhiều thứ như cứu lụt,
nuôi con, tranh đấu; hay giản dị hơn, ăn quà, nói dai, đánh
ghen, hay khóc, thích dỗi.- cũng là cái thị trường rộng lớn
đang được cô XXX lăm le o bế để sống trên cái lợi nhuận
phát xuất từ họ. Sự kiện ấy vô cùng mâu thuẫn với cái
câu mà tác giả bài báo trên vừa tuyên bố chắc nịch là
cô XXX này "còn có thể làm một.tỉ thứ khác , những thứ
mà rất ít người đàn bà nào biết làm" (!!!) Hóa ra, một
trong những thứ mà rất ít người đàn bà nào biêát
làm mà cô XXX biết làm là phân loại "hàng hóa" -môi,
cằm, ngực, mỡ bụng.- để rồi cô ta sẽ được hưởng
một khoản tiền huê hồng hậu hĩ từ các ông thày pháp.
Còn họ sẽ lần lượt sống với những túi "nước biển"
lủng lẳng bên trong vòng số 1 hay những đôi môi sưng (vều)
lên nhờ chích collagen cứ như bị ong đốt và những cái mũi
đã được gọt đi, gọt lại. Chưa bao giờ những "tác phẩm
nghệ thuật" là những "sản phẩm" nhắm đến chân thiện
mỹ lại được hạ giá đến nỗi cho đứng ngang hàng với
nhũng thứ không
chân, không thiện , không mỹ
chút
nào như những túi nước biển trong thân thể ngưới ta của
bài báo này. Nếu người đọc không biết tỏng ra đây chỉ
là một bài báo hạng bét để quảng cáo, để bốc nhau lên
thì cậu- hay cô nào- viết bài này chắc chắn sẽ được
lãnh ít nhâát là .một tỉ
cái guốc cao gót của quý
cô về cách viết đại ngôn và lố bịch này.
Nhưng cái mà chúng ta lo ngại
ở đây không phải là những bài báo nói láo ăn tiền (huê
hồng) kiểu trên. Điều mà chúng ta lo ngại là nếu các bạn
ta đồng lọat "căng da mắt, căng da trán,." "chích
vết nhăn và làm môi mọng lên." như những lời quảng
cáo này thì xã hội chúng ta sẽ biến thể thành một thứ
xã hội tương tự như trong "Hòn đảo của bác sĩ Moreau" .
Trong xã hội này, tuy chúng ta không có những sinh vật nửa
người nửa thú hay dị dạng xấu xí như "Gã gù nhà thờ
Đức Bà" vì tham vọng thay thế Thượng Đế của Bác sĩ Moreau
nhưng ngược lại chúng ta sẽ có những bà cụ.nhất định
không chịu già, mặt mũi không hề nhăn nheo vơiù những vòng
số 1 nhất định không tuân theo định luật khoa học nào
mà cứ muôn đời vĩ đại như bác Mao. Tất cả những cuốn
Quốc Văn Giáo Khoa Thư sẽ phải lập tức in lại, tái bản
để những câu tả bà ngoại, bà nội không được có những
chữ rất tai hại như : đôi mắt hấp háy, tóc bạc phơ,
da đồi mồi. Các em bé tả chị, mẹ và bà đều chỉ
cần viết một bài rồi "thay vào một chữ cho hợp nghĩa."
Rùng rợn hơn nữa, lên chùa để lễ Phật hay mượn ấm,
mượn
đĩa (mượn quan họ Bắc Ninh).chúng ta sẽ chỉ thấy rặt
những người đàn bà "cổ quái" mà bình thường sự nhân
hậu, từ ái vẫn thường hiêän lên ở những khuôn mặt già
nua tuổi tác. nay đã bị các ông thầy pháp Tây dùng những
con dao gọt nhaün hết nhân danh "sắc đẹp- sự tự tin-niềm
yêu đời". Ngay cả giới nghệ sĩ, ca nương là giới rất
cần sắc đẹp, tôi vẫn có cái cảm tưởng bất an, râát
bất an khi gặp những người tuổi đã quá mấy lần "tri thiên
mệnh" mà mặt mũi cứ.phẳng phiu như đồng bằng Cửu Long.
Có cái gì trái thiên nhiên ở những bộ mặt này làm tôi
kinh sợ. Nếu chúng ta cứ đòi bắt chước những vòng số
một vĩ đại, những cái mũi cao chót vót như tháp Eiffel của
những người hàng xóm Tây Phương, sao chúng ta không bắt chước
luôn cái .can đảm của họ nhỉ? Các bạn cứ xem lại ảnh
của Simone Singoret (tài tử nổi tiếng của Pháp) thì thấy
ngay. Simone Singoret cuối đời vòng số 1,2 và 3.lẫn lộn với
nhau hết nhưng khuôn mặt là khuôn măët thu hút của một đời
người đã kinh qua hết mọi sự. Cái viễn tượng này đang
làm tôi dự tính sẽ mở hội " Bảo tồn những người già
tại hải ngoại". Địa chỉ liên lạc là địa chỉ của những
ông thầy pháp Tây Y và những người đại diện cho họ. Các
bạn nghĩ tôi làm một việc trái khoáy chăng? Ơ hay, chỉ có
thân chủ của họ thì mới cần được liên lạc để "bảo
tồn cái nêàn văn minh già cả ". Chứ như tôi và bạn, nhất
định ngồi chờ "cái già xồng xộc nó thì lôi đi" thì cần
gì phải liên lạc?!
II. THẨY PHÁP VẮN NGHỆ
Ấy là nói về cái "đẹp"
bên ngoài. Còn cái đẹp bên trong ra sao? Lấy đâu ra những
ông thầy pháp có thể chữa cái "xâáu" của "nội thể", của
tâm hồn?! Đó là lý do cắt nghĩa tại sao lại có hiện tượng
mâàm già và thầy pháp văn nghệ xuất hiện ở
hải ngoại song song với hiện tượng "giải phẫu thâåm mỹ"
và "thầy pháp giải phẫu".
A. THẨY PHÁP VẮN NGHỆ CÓ
TĂM TIẾNG TIỀN 75
Thỉnh thoảng trong những bài
viết đây đó tôi lại được (hay bị?) đọc những câu tán
rất nhảm của các bạn ta, đại khái như :"Hai cô QQQ (1)
và KKK là hai ngôi sao thi ca ở Paris" (Hồ Trường An, Chân
Trời Lam Ngọc, trang 151, Kinh đô Ánh sáng, Pháp) hay "Ba cô
HHH, LLL và SSS là ba cô công chúa của thi ca Việt Nam " (trích
Việt Mercury-Phụ bản nhật báo San Jose Mercury News, trang 49,
số 13, ngày 23.4.99, San Jose, California) vv và vv.Trên thực tế,
thơ của những "ngôi sao" và "công chúa" này cũng chỉ như
ánh trăng lu, như phó thừơng dân chúng ta thôi, có khi còn
tệ hơn nữa. Hay là tôi không hiểu thâm ý của bạn ta Hồ
Trường An là so sánh hai cô QQQ và KKK với dân bản xứ Pháp
vốn không biết tiếng Việt. So sánh với những người mù
chữ Việt này thì thơ thẩn của các bạn ta làm sao mà không
thành .ngôi sao được?! Và các cô
công chúa này
mai kia cũng chỉ đứng bên leà buồn thảm vì "ngai
vàng thi ca" sẽ truyền lại cho các cậu.hoàng tử, đời nào
đến phiên các cô.công chúa?! Nói của đáng tội, bạn ta
Hồ Trường An chắc cũng chỉ "ham vui" cho quên nỗi sầu xa
xứ mà viết loạn lên về thế giới có mấy người bát nháo
của chàng. Nhưng Hồ Trường An quên rằng nhà văn không thể
không "đề cao cảnh giác". Khi viết phướn lên về những
ngôi-sao-thi-ca này, chàng quên một điều rằng chính những
điêàu ấy sẽ phản ảnh trực tiếp vào ngòi bút "phê bình"
của chàng và quan trọng hơn hết thảy, góp phần vào sự
hỗn loạn của "văn nghệ sĩ hải ngoại". Hầu như những
bài chàng tả tình tả cảnh về những "ngôi sao ", những "cô
công chúa" đều thuật lại những màn hát hỏng, làm trò,
ngâm ngợi không có gì xuất sắc của các bạn ta. Đó là
một điều rất đáng tiếc: là một nhà văn, Hồ Trường
An phải là người đầu tiên nhận ra rằng chính vì những
trò này mà cho tới nay các nhà văn phụ nữ vẫn bị xếp
vào giai cấp thứ hai, cái giai cấp "bâát tri vong quốc hận",
saün sàng "múa hát" mà không diễn thuyết, chỉ giúp vui
mà không đặt vấn đề dù những vấn đề ấy sẽ làm người
nghe mâát vui, chỉ biết ngâm thơ mà không thể diễn
thơ, đừng nói đến làm thơ, chỉ là nhân vật tháp tùng
mà không là người chủ trương. Không hiếm gì những nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng đóng kịch, ngâm thơ .nhưng hoàn cảnh
khi họ xuất hiện bảo đảm tư cách nhà văn của chính họ.
Cứ tuởng tượng một nhà văn phụ nữ nổi tiếng, lên sân
khấu (nhất là lên sân khấu với toàn những của giả chủ
ý để bày hàng sau khi đã đến thăm cửa tiệm của cô XXX
trên kia) uốn uốn tấm lưng ong (đã hút mỡ), chớùp chớp
đôi măét phượng (vừa giải phẫu xong), .thì còn gì là thơ
với văn nữa?! Người đọc nhìn thấy ngay sự ."thày pháp"
của Hồ Trường An khi đọc tới những đoạn chàng viết
về các nhà văn tên tuổi:
-.Cũng vậy, quyển tùy bút
của Vũ Khắc Khoan gồm "Mơ Hương Cảng" và "Túy Bút" (túy
ở đây là say, Túy bút là bút ký viết về chuyện rượu
chè) cũng có thứ văn chương cầu kỳ, trặc trẹo như vậy,
cũng phô trương trí thức cẩu thả xả láng như vậy, chỉ
có tác giả hiểu những gì tác giả viêát ra.(trang 109,
sđd)
-.Hồi ở trong nước trừ
Bùi Giáng ra, các ngôi sao thi ca như Trần Tuấn Kiệt, Hoàng
Trúc Ly, Quách Thoại, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên
chỉ đạt về cái đẹp nghệ thuật chứ về tư tưởng thì
họ hãy còn mập mơø.(trang 111, sđd)
Về việc Hồ bạn ta vừa hạ
những thi sĩ của chúng ta xuống thành những ngôi sao thi
ca ngang hàng với các nhà thơ "đêm buồn tỉnh lẻ" ở
hải ngoại, tôi xin dành lời bàn cho độc giả. Riêng trường
hợp Vũ Khăéc Khoan, tôi muốn dùng để chứng minh rằng thật
ra các ông thày pháp đã có từ Việt Nam. Có điều ít hơn
hay chưa đến nỗi lạm phát như bây giờ. Không phải cứ
là nhà văn tên tuôåi là phê bình giỏi hay chọn đúng người
mà chọn mặt gửi.văn được. Mới đây, trong một bài viết
về Vũ Khắc Khoan, nhà thơ Viên Linh có nhắc đến cái thiếu
sở trường này của một nhà văn tên tuổi khác, Võ Phiến:
-.Võ Phiến dựa vào Cao Huy
Khanh quá nhiều, song lại không thấy cái Cao Huy Khanh đã thấy,
xác đáng và rành rọt:..Tại sao cùng bàn về Thần Tháp Rùa,
Cao Huy Khanh và Võ Phiến lại thấy khác nhau? Cái khác nhau
ấy xẩy ra, có lẽ vì Cao Huy Khanh là một nhà phê bình văn
học, mà Võ Phiêán là người viết tạp văn..(trang 20)
Nhưng Hồ tài tử chỉ nguây
nguẩy dèm pha cái văn chương "trặc trẹo" trong "bút
ký rượu chè" của Vũ quân. Còn Võ văn hào mới càng ngấm
nguýt cái cách tác giả "Thành Cát Tư Hãn" sáng tác ra cái
"trặc trẹo" ấy:
-.Độ ấy, từ trung bắc
nước Mỹ, ông thường gửi xuống Cali những bài lộng ngôn.
Gần như trong cái ngôn nào cũng lẩn quất mùi rượu.
Và
cái rượu, ai cũng biết nó liên hệ rất lỏng lẻo với sự
lao tác. (Kịch, trang 2753, chữ in đâäm là bởi NTC)
Võ văn hào nói hơi quá chăng:
"ai cũng biết" rượu liên hệ rât lỏng lẻo với sự lao
tác?! Ai mà biết! Định luật ấy đúng với mọi sự "lao
tác" khác, trừ một sự
lao tác duy nhất: viết. Tương
truyêàn Lý Bạch bị lôi vào triều bắt làm thơ "vịnh" Dương
Quý Phi đang khi say mèm (bài Thanh Bình điệu). Lý Bạch là
một trong tám ông tiên .rượu (Tửu trung bát tiên.) Đỗ Phủ
có nhắc đến trong bài "Aùm trung bát tiên ca" (2). Không cần
là tiên mà tướng quân cũng biết thưởng thức rượu: Đỗ
Thu Nương, nổi tiếng tài hoa, tác giả bài thơ " Kim Lũ Y"
(3) là thiếp của quan Tiết Độ sứ Lý Kỹ. Lý Kỹ rất yêu,
lúc uống rượu say thường ngâm vang bài thơ này. Sau Lý Kỹ
làm phản, bị giết. Đỗ Mục, một nhà thơ khác -còn được
gọi là Tiểu Đỗ để phân biệt với Đỗ Phủ là Lão Đỗ-
soạn tập Đỗ Thu Nương thi về cuộc đời nàng. Trong
Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị có câu " Trang thành mỗi bị Thu
Nương đố" chính là chỉ nàng vậy. Chẳng lẽ chúng ta
đã không làm thơ được như Lý Bạch, như Đỗ Thu Nương
mà còn.trặc trẹo đêán nỗi không uống được rượu
để "nghiêng bầu mà hỏi" hay sao? Một người hẳn phải biết
rượu mà còn biết lao tác viết như Viên Linh viết
sao về cái "mùi rượu" đã làm khổ Võ Phiến này?
-.Những người không hiểu
Vũ, nói rằng Vũ Khắc Khoan yêu Hồ Trường chỉ vì anh thích
uống rượu. Có phải thế đâu. Bài thơ chẳng nói gì về
rượu. Bài thơ quan trọng chỉ ở hai chữ, hai chữ không dính
dáng gì đêán rượu: hà tất. Hai chữ
hà tất
này được nhắc đến hai lần:
-hà tất tiêu dao bốn
bể luân lạc tha phương.
-hà tất cùng sầu đối cỏ
cây.
Hà tất là cái lý do. Hà
táát là cái cớ. Cái lý do mà tác giả bài thơ, Nguyễn bá
Trác, hay người yêu Hồ Trường, Vũ Khắc Khoan, rót
rượu ra, không phải vì thích say sưa. Cái lý do ấy, không
phải là trượng phu, hà tất phaiû tìm hiểu. Không phải vì
sự nghiệp, hà tâát phải sầu đối cỏ cây.
Và rượu rót ra, là cho bốn
phương Đông Tây Bắc Nam. Chứ không phải cho Đông Tây Nam
Bắc. Chỗ này có một tý hoán chuyển. Ta để cái
Trời
Nam Mù Mịt vào chỗ ráo rốt, chỗ cuối cùng. Và rượu
rót ra đâu phải cho bọn ngưu ẩm, hay cho những .thôi, hà
tất phải nói thêm. (trang 22, sđd)
Không phải chỉ có một tý
rượu đã làm hỏng cái phê bình của Võ văn hào. Còn chuyện
lớn hơn là chuyện chủ thuyết, chuyện văn chương. Vũ Khắc
Khoan vào Nam, ở trong nhóm Quan Điểm. Nhóm Quan Điểm khác
các "nhóm" khác như Sáng Tạo, không ở chỗ tuổi tác mà chính
ở chỗ nhập thế. Trong khi Mai Thảo viết những tác phẩm
trữ tình, Thanh Tâm Tuyền và cả Tô Thùy Yên làm thơ, băn
khoăn về những vấn đề siêu hình hay bản thể con người
thì tác giả trong nhóm Quan Điểm ngoài những sáng tác văn
nghệ tùy theo sở trường còn viết "thuyết". Trên kia, Viên
Linh có nói "Võ Phiến dựa vào Cao Huy Khanh quá nhiều". Quả
có đúng. Dựa vào Cao Huy Khanh quá nhiều mà không hiểu được
Vũ Khắc Khoan, tệ hơn lại dùng chính Cao Huy Khanh để .hiểu
lầm Cao Huy Khanh nữa!
Cố tình hay vô ý hiểu lầm
Cao Huy Khanh? Người đọc có cảm tưởng Võ Phiến cố tình
cắt xén bài viết của Cao Huy Khanh (như đã làm trong trường
hợp Vũ Hòang Chương) để đưa ra lý luận , "khám phá" khác,
mới của mình. Trong khi âáy, cái lý luận khám phá ấy không
mới chút nào mà đã nằm saün trong bài của Cao Huy Khanh
Nếu không có nguyên bản bài viết này của ông, đăng lại
trên Khởi Hành mới đây Cao Huy Khanh sẽ mang tiếng muôn đời
vì lối viêtá, lối cắt xén hết sức tinh vi này của Võ
văn hào. Bài Võ Phiến viết về Vũ Khắc Khoan trong tập "Văn
Học Miền Nam. Kịch-Tùy Bút" từ trang 2745 tới trang 2759 có
hai nhận xét chính mà Võ Phiêán nhận là của mình để dùng
so sánh với Cao Huy Khanh: thứ nhâát là về cách viết ; thứ
hai là thái độ chính trị, ý muốn lập "thuyết" (chống cộng).
Về cách viết, về sự nghiệp
văn chương, về tác phẩm, đây là phần Võ Phiến trích dẫn
Cao Huy Khanh:
-.Dù sao, rồi ông Cao cũng
đi quá cái phần thân thể một chút: ông có lời nhận xét
về tính tình Vũ ông. Rằng "nếu viết văn ông ta là một
nhà văn lươiø biếng nhất thế giới thì đi dậy học ông
ta là một ông thầy câu giờ quá cỡ". Ở một đoạn khác,
trước đó, ông Cao nói rõ hơn: "với hai chục năm trong nghề
mà số tác phẩm của ông ta chỉ có thể đếm được trên
đầu ngón tay! (trang 2749, sđd)
Để sửa soạn cho bốn chữ
hết sức quan trọng "dù sao" và "một chút", Võ
Phiến trước đó trích gần một trang của Cao Huy Khanh tả
"thân thể" Vũ Khắc Khoan.
Trích như thế, sửa soạn như
thế, cắt xén như thế để Võ văn hào có dịp bác bỏ lý
luận của Cao tài tử, để có dịp lên giọng thày đời,
à quên thày pháp, mà khoe cái tài phê bình tài tử:
-.Và cái rượu, ai cũng biết
nó liên hệ rất lỏng lẻo với sự lao tác[.] E ông Cao Huy
Khanh nắm đúng chân lý chăng?- Chứ gì nữa. Oâng Vũ Khắc
Khoan ủng hộ hết mình như thế thì ông Cao thắng là cái
chắc- Thật ra họ Vũ chỉ ủng hộ Cao huy Khanh khoảng chừng
nửa mình. Nửa khác, ông còn để dành ủng hộ những kẻ
nói trái lại họ Cao.(trang 2753, sđd) [.] Cao Huy Khanh chê
ông Vũ viết ít. Quả có ít thật. Trong một thời gian dài
hơn, ông viết ít kịch hơn Đoàn Phú Tứ, ít hơn Vi Huyền
Đắc. Nhưng riêng chỗ đó không hẳn do ông lười. Có thể
vì ông kỹ. (trang 2757, sđd)
Có thực Cao Huy Khanh "đi
quá cái phần thân thể một chút" (chỉ một chút thôi)
như Võ văn hào "cấp báo, cấp báo" cho độc giả không? Không
đâu. Sự thực là Cao Huy Khanh không chỉ viêát có 4 câu đó,
Cao Huy Khanh viết hơn ba trang rưỡi khổ chữ nhỏ, khổ báo
lớn như Khởi Hành, nghĩa là ít nhất cũng hơn mười mấy
trang khổ cuốn Văn học Miền Nam của Võ Phiến. Cao Huy Khanh
không hề chê Vũ Khắc Khoan viết ít. Đây là nguyên
văn của Cao Huy Khanh chỉ ở môät đoạn, mà Võ Phiến đã
trích thiếu:
-.Ngoài ra cả tác phẩm còn
chứng tỏ cho thấy cái công phu gạn lọc kỹ càng, tính cẩn
tthận của tác giả đôi khi còn quá cẩn thận! Đây là nhà
văn nhàn nhã nhâát của văn chương miền Nam Thời Hiện Đại:
với hai chục năm trong nghề mà số tác phẩm của ông ta chỉ
có thể đếm được trên đầu ngón tay!.nhâát là nếu người
ta chịu khó đối chiếu với những tác phâåm cùng loại (cùng
chịu sự chi phối của một thứ hoàn cảnh chính trị) xuất
hiện trong thời kỳ này vốn hầu hêát là nhũng tác phẩm
được sáng tác một cách vội vàng và dễ dãi chiều theo
những đòi hỏi nhất thời của tình thế chính trị. Bởi
thế, về tác phẩm Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, trong
văn học sử người ta có thể ghi nhận : Tác phẩm đánh dâáu
sự xuất hiện một thể tài văn chương mới và hiếm hoi
trên văn đàn Miền Nam (Huyền truyện) một cách thành đạt.
.(Khởi Hành, số 47, trang 28)
Như thế có khác gì với "khám
phá" mà Võ Phiến đã phản bác Cao huy Khanh đâu? Võ Phiến
lập lại nguyên văn Cao Huy Khanh (kỹ càng, chữ của
Cao Huy Khanh- kyõ, chữ của Võ Phiến), nỡ nào dấu biến
cái xuất xứ ấy đi?! Võ Phiến cũng vì dụng ý mà chỉ trích
ra chữ "lười" chứ không trích chữ "nhàn nhã" của Cao Huy
Khanh. Vì dụng ý ấy mà Võ Phiến nhắc đi nhắc lại nhiều
lần một chữ "lười" của Cao Huy Khanh để có cớ nói ngược
lại dù ai cũng biết trong mạch văn ấy (một nhà văn lười
biếng nhất thế giới), chữ "lười biếng" không có cái
nghĩa mà Võ Phiến đổ diệt cho nó. Với nhận xét về "huyền
truyện" độc đáo này, Cao Huy Khanh tìm thááy giá trị của
người viết trí thức tiểu tư sản chống cộng Vũ Khắc
Khoan:
-.Đó là ý nghĩa gía trị
chính của Huyền truyện mà ngày nay đọc lại người ta có
thể ghi nhận được, khi mà những dao đôäng của một thời
thế cũ đã qua rồi, ý nghĩa giá trị của một nôäi dung
chính trị (làm chứng cho những biến động thời cuộc của
một giai đoạn lịch sử, đánh dấu một chặng đường trong
tiến trình tư tưởng của giới trí thức miền Nam) được
kết hợp toàn vẹn với một hình thức tương xứng (ngôn
ngữ của Huyền truyện). Đó là những điều gì còn lại
từ Huyền truyện Vũ Khắc Khoan, một kinh nghiệm lịch sử,
một hành trình tri thức, và một bài học về nghệ thuật
(phải chăng từng đó cũng đã là quá nhiều với một việc
làm văn chương nhỏ nhoi).(trang 29, Khởi Hành, sđd)
Không những không đủ bản
lĩnh văn chương để khám phá cái độc đáo của ngôn ngữ
"huyền truyêän" trong văn chương Vũ Khắc Khoan, cái mục đích
của huyền truyêän qua nhiêàu thập niên khi người ta còn
phải sống trong những thời buổi "khó khăn, quá khó khăn"
(Cao Huy Khanh),Võ Phiến còn chê Vũ Khắc Khoan viết truyện
mà viết như ông, đời nay không viết theá, văn
ông như dịch từ truyện Tàu thuở nào! Câu đó không cách
nào bào chữa là một câu khen được! Tưởng tượng bạn
ta Đặng Tiến viết lách thế nào mà bị.khen là "gớm, đời
nay ai mà còn viết như thế, cái cậu Đặng Tiến viết cứ
như là dịch từ mấy anh Tây nhà đèn từ thời bị đô hộ
ra" thì không hiểu bạn ta có vội vàng ôm ngay lấy, khênh
về cho đóng khung nó lên và trân trọng treo trong đại sảnh
của tư gia không?!
Còn về ý muốn lập thuyết,
về khuynh hướng chính trị, Cao Huy Khanh viết cũng tỷ mỷ
không kém:
-.Vậy muốn chống Cộng
cho có kết quả tất phải tìm ra cho được một lý thuyết
một chủ nghĩa môät chế độ nào vừa tỏ ra thích hợp với
mình làm lại vừa có tính cách đối nghịch lại với họ
một cách có hiệu quả. Đó là điều Vũ Khắc Khoan và các
bạn đồng chí của ông đã miệt mài theo đuổi: Đi tìm một
ý thức hệ mới cho Miền Nam. [.] Vậy nên đọc lại tác phẩm
Vũ Khắc Khoan, với trường hợp làm văn chương của Vũ Khắc
Khoan, thêm lần nữa người ta tìm thấy lại câu giải đáp
muôn đời cho mối thăéc mắc về sự tương quan giữa ý thức
chính trị và ý thức văn chương thể hiện trong một tác
phâåm, một nghệ phẩm làm thế nào để tác phẩm đó chuyên
chở được hết cái phần nội dung chính trị của nó mà
đồng thời vẫn không bị sa đọa vào trong một thứ văn
chương khẩu hiệu và truyền đơn. (trang 29, Khỏi Hành,
sđd)
Khi Võ Phiến dẫn chứng chuyện
Vũ Khắc Khoan "rỉ tai" Đặng Tiến bỏ ra đi ăn phở, không
muốn nghe "một nhà hùng biện thao thao thuyết giảng"
để kết luận "Vũ Khắc Khoan không muốn nghe người ta
lập thuyết chống cộng và chế giễu phép chống côäng bằng
chủ thuyết ." là không đúng. Võ Phiến dẫn chứng quá
ít nhưng qua những lời đã viết ra, người đọc có cảm
tưởng giản dị rằng Vũ Khắc Khoan -và cả chúng ta nữa-
không ai chịu ngồi nghe những nhà hùng biện kiểu tâm
lý chiến đó. Khi rủ Đặng Tiêán bỏ đi, có lẽ Vũ quân
chỉ chống lại .nhà hùng biện như chúng ta phản đối các
mầm già văn nghệ bây giờ chứ không hề chống lại việc
lập thuyết để chống cộng. Có điều ở Vũ Khắc Khoan,
phản ứng ấy (đứng dậy bỏ ra) quyết liệt hơn là những
người cả nể như chúng ta, những kẻ vẫn ngồi chịu trận
và sau đó về nhà mới tả oán ầm ỹ lên hay trách móc ban
tổ chức, những ban tổ chức neo người, không đủ tiền
thuê Trưởng Ban Trật Tự. Người sáng tác không phải là
những anh tâm lý chiến được nhà nước trả lương. Bởi
thế, e rằng một cái thí dụ do Đặng Tiến đưa ra không
bác được lời bình của Cao Huy Khanh. Nhất là khi Cao Huy Khanh
đã từng viết vô cùng rõ về sự lập thuyết này. Nhất
là khi Võ Phiến cắt xén bài của Cao Huy Khanh để có cớ
"gieo tiếng dữ" cho Cao Huy Khanh rằng Cao Huy Khanh chê Vũ Kháéc
Khoan "lười" về mọi phương diện. Còn nói về những bài
viết "lộng ngôn" của Vũ Khắc Khoan sau 1975 để bác nhận
xét của Cao Huy Khanh thì lại càng không công bằng, chưa cần
biết tới là đúng hay sai: Cao Huy Kanh viết bài đó thời những
năm 70 mà khi đem những chuyện sau 75 vào một cuốn sách viết
về văn học Miền Nam trước 75 là cụ Võ đã "ăn gian" rồi
đấy. Nhưng cụ Võ vẫn không thể ăn gian được vì Cao Huy
Khanh tinh hơn cụ nhiều, gã nhìn thấy chủ ý của "lộng ngôn
Vũ Khắc Khoan" từ hồi trước 75 rồi kìa:
-.Vũ Khắc Khoan: "Tình
yêu chỉ là một cái cớ" (Những Người Không Chịu Chết-Kịch).
Vâng, táát cả chỉ đều là một cái cớ hết thảy, từ
Thành Cát Tư Hãn cho đến cái thằng cha đàn ông ma-nờ-canh
tình nguyện tự đem mình bày bán trong tiệm chạp khô cho thiên
hạ coi chơi đỡ nghiền ấy.[.] và ngay cả cái chú Cuội ba
lăng nhăng kia nữa chứ. Bọn chúng, tất cả, đều là những
cái cớ chứ có gì đâu, hỡi những Trương Chi, những Lưu
Nguyễn, Tú Uyên và chàng họ Đỗ sắp hàng một chui đầu
vào trong một cái cớ mà thôi vậy.[.] Nhờ thế mà tất cả
tác phẩm của Vũ Khắc Khoan.xứng đáng là những tác phẩm
văn chương chứ không phải là những tác phẩm tuyên truyền
chính trị.(Khởi Hành, trang 29, sđd)
Cái nhận xét ấy không khác
gì nhận xét mà Võ Phiến tự nhận là của mình, là " Ở
Vũ Khắc Khoan có chỗ cho Thành Cát Tư Hãn ngồi lừ lừ, mà
cũng có đủ chỗ cho thằng Cuội tha hồ lếu láo, đùa giỡn,
nghịch ngợm. .." ( trang 2749, sđd)
Cao Huy Khanh còn ở lại Việt
Nam. Bài Cao Huy Khanh, nếu không nhờ Viên Linh cho đăng lại
trên Khởi Hành như đã nói trên, người ta- đời này và nhiều
đời sau- không cách nào biết được bài Võ Phiến viết về
Vũ Khắc Khoan là một bài không có gì mới, lạ; trừ vài
cái giai thoại ông nhắc tới giữa Vũ quân và Đặng Tiến,
Nguyễn Cao Đàm hay chính ông. Những giai thoại ấy chỉ trợ
giúp mà không thể quyết định khi phê bình một tác giả.
Người đọc còn có cảm tưởng nếu không có bài của Cao
Huy Khanh để làm nền mà .cắt xén, Võ Phiến sẽ không viết
được gì ngoài những giai thoại trên. So với Cao Huy Khanh,
Võ Phiến không đưa ra được nhận xét "huyền truyện" và
tác dụng chính trị của huyền truyện mà Vũ Khắc Khoan sử
dụng rất thành công. So với Viên Linh, Võ Phiến không có
cái thân cận đủ để phân tích tác giả- cùng- tác phẩm,
không có phong cách nhà thơ để dùng chữ, không có bản lĩnh
văn chương để phê bình về khía cạnh nghệ thuật. Bài của
Võ Phiến, cuối cùng, là một bài rất nông, dựa vào chỗ
này một tý, ngả vào chỗ kia một tî, tiếng là khen mà thập
phần xách mé, vẻ là tán tụng mà vô cùng dè bỉu.
Vũ Khắc Khoan không phải là
tác giả duy nhất suýt bị gục vì cái võ này. Dở bất cứ
một tác giả nào ở ngoài nhóm Bách Khoa (mà Võ Phiến có
mặt) lại xuất thân trí thức, lại có vẻ ..hào hoa, sẽ
thấy lại cái võ ngáng chân ấy. Thí dụ như trường hợp
Mặc Đỗ. Mặc Đỗ ở nhóm Quan Điêåm với Vũ Khắc Khoan,
Nghiêm Xuân Hồng. Trong khi Bách Khoa nổi tiếng là nơi xôi
đậu với những cán bộ cộng sản nằm vùng như Vũ Hạnh,
nhóm Quan Điểm là nhóm "trí thức tiểu tư sản" chống cộng.
Võ Phiến viết rất bạc về Mặc Đỗ, thu gọn những nhân
vật của Mặc Đỗ vào một câu "Họ sống nhiều hơn làm.
Trong cái "sống" của họ có rất nhiều bữa ăn, nhiều rượu
tây, nhiều nhà hàng, có cả nhà hát cô đầu nữa." (trang
922, sđd) sau khi đã đưa ra cái tiền đề ".Những người
may mắn này, thành phần được ưu đãi nhất của tiểu tư
sản này, họ sống ra sao, họ làm những gì trước sự
trông cậy của những ai cùng chiến tuyến?" (cùng trang,
sđd). Dĩ nhiên, sau đó Võ văn hào phải khen vớt Mặc Đỗ
(người Bắc giỏi biện luận.) để che cái bạc này.
Nhưng cái khen ấy không cứu vãn gì được mà thật ra lại
chỉ để ngầm xác nhâän lời phê trước đó là những nhân
vật này chỉ nói, chỉ luậnnhiều hơn làm.
Cái "hai phải " mà Võ Phiến
khéo léo tự nhận ở cuối bài (khen một tác phẩm vì giá
trị nghệ thuật hay vì giá trị dấn thân) không dấu được
cái chủ ý ngay từ đầu là tạo cho độc giả cái cảm tưởng
các nhân vật sống mà không làm của Mặc Đỗ cũng
chính là tác giả và thân hữu của ông (tác giả không
những đã "gần", lại còn rước luôn họ vào
sách mình, trang 929, sđd-chữ in đâäm là do NTC) . Cái "khen"
của Võ Phiến là cái dụng tâm của một người phê bình
có saün thành kiến không tốt với tác giả để che đậy
cái thành kiến ấy. Nếu không, tại sao Võ văn hào lại lôi
một truyện ngăén rất hay của Mặc Đỗ như truyện
Trăng
Đỏ để làm thí dụ mà giáng cho tác giả những lời
bình sau đây:
-.Nhìn xung quanh, những nhân
vật nọ nhìn sự việc cách hững hờ, nhìn người cách khinh
bạc; nhưng khi nhìn rượu, họ có cái nhìn ngưỡng phục.
Rượu mà có cả thuốc nữa thì nhất [.] thành thử, rượu
đánh giá cái cao thấp của con người. Rượu là tiêu chuẩn
đánh giá con người .(trang 924, sđd)
Ngay sau những lời bình hết
sức tai hại cho tác giả, Võ Phiến bèn lại rất tử tế
chống đỡ hộ cho tác giả và luôn các nhân vật ấy trong
khi chỉ riêng ở Trăng Đỏ, hai nhân vật này không cần ai
chống đỡ cho họ cả. Cũng không hề có việc "nhìn người
cách khinh bạc; nhưng nhìn rượu, họ có cái nhìn ngưỡng
phục" như Võ Phiến đã phê bình ở Trăng Đoû để
gán cho mọi nhân vật khác của Mặc Đỗ. Tôi còn có cảm
tưởng Võ văn hào có .ác cảm với rượu khi nhìn lại cái
câu Võ văn hào viết về Vũ Khắc Khoan trước đó. Phải chăng
cụ Võ nay phải "chừa rượu với chừa trà" (4)?!
Không hiêåu đôäc giả nghĩ
sao. Riêng tôi, đọc xong nhiều bài của Võ văn hào với những
màn "tiểu xảo" (trả lại chữ của Võ Phiến dùng cho thi
hào Vũ Hoàng Chương) đã chứng minh, quả là tôi tê tái. "Tê
tái" chứ không bàng hoàng" như bạn ta Viên Linh, người vô
tình bắt găëp những cái tiểu xảo này. Vì đây không phải
là lần đầu tiên tôi "tê tái": những sai lầm, cắt xén rất
tinh vi và rất khủng khiếp kiểu này đầy dẫy ở trong sáu
tập "Văn học Miền Nam" của nhà -phê- bình kiêm nhà văn Võ
Phiêán. Với Vũ Khăéc Khoan, ông dùng chữ "giọng lưỡi",
với Vũ Hoàng Chương, ông phê "tỷ mâån của tiểu
xảo", với Đinh Hùng, ông phán "thừa thãi quá, nhiều
vòng xoắn rối rít quá" (ơ hay, chữ viêát xấu hay đẹp
thì mắc gì đến văn chương?), với Mai Thảo, ông giáng "nhẩy
cỡn, hay ho". Chẳng lẽ nào một nhà văn nổi tiếng, lại
đánh những cái "võ" (tôi không có ý chạm húy Võ Phiến)
rất tầm thường này với đồng nghiệp, từ những đồng
nghiệp thuộc loại "hậu sinh" như Cao Huy Khanh cho đến những
đồng nghiệp "tiền bối" như Vũ Khăéc Khoan? "Hậu sinh" Cao
Huy Khanh lúc viết loạt bài phê bình
Mười Lăm Năm Văn
Xuôi Miền Nam này, đăng trên Khởi Hành bộ cũ năm 1970,
chưa tới ba mươi tuổi. Sau này nhà văn Doãn Quốc Sỹ thu
thập, in lại và đem vào chương trình giảng dậy của ông
tại Đại Học Sàigon. Võ Phiến có những bài viết này của
Cao Huy Khanh, tại sao lại cắt xén nguyên văn? Còn sở dĩ tôi
nói "tiền bối" là khi những Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Vũ
Hoàng Chương đã nôåi đình nổi đám thì Võ Phiến còn mới
viết lách và chưa chính thức tham dự những hoạt động văn
nghệ ở .Tràng An. Lúc đó, Võ Phiến còn phải gửi tác phẩm
mình- tác phẩm đầu tay của Võ Phiến, Chữ Tình, xuâát bản
năm 1956- tới tờ "Văn Nghệ" ở Sàigon và Viên Linh, trong ban
biên tập tòa soạn, là người điểm cuốn sách này, khoảng
năm 1957-58. Tôi viết sự kiện này ra, không để dè bỉu nhà
văn Võ Phiến mà chỉ để chứng minh lời tôi viết vì ở
thời điểm đó, ai cũng dư hiểu rằng, môät nhà văn có tăm
tiếng thì tác phẩm mới sẽ lập tức được phê bình, được
điêåm tới, không cần phải đích thân gửi cho tòa soạn.
Làm gì có chuyện những Vũ Khăéc Khoan, những Vũ Hoàng Chương,
những Mặc Đỗ phải làm chuyện đó, cái chuyện mà Võ Phiến
đã phải làm?!
Than ôi, phải chăng cụ Võ
nhà ta lệch ở những chỗ không thể lệch được chỉ vì
những "đồng nghiệp" này tài hoa quá chăng? Trí thức quá
chăng? Biết đóng kịch, diễn thơ, .uống rượu quá chăng?
Được người ta yêu mến quá chăng? ø Tôi viết những nhận
xét này là căn cứ trên tình hình văn học Miền Nam trước
1975: nhà văn Võ Phiến không phải là một nhà văn có thế
lực ở cái nghĩa làm cho văn giới, độc giả sôi động vì
những hoạt động hay chủ trương độc đáo, dù ngắn ngủi
như Sáng Tạo. Cho đến nay, người ta vẫn chỉ nhắc tới
ông như là một người nâng đỡ cho một số nhà văn nữ
của Miền Nam và là một người viết truyện hay, viết tùy
bút khéo. Riêng về tùy bút, cái khéo của ông vẫn chưa vượt
nổi cái bén và chữ của Nguyễn Tuân. (Nhưng đó cũng không
quan trọng vì không dễ gì mà vượt nổi Nguyễn Tuân.) Ngoài
ra, hoạt động của ông hoàn toàn giới hạn vào sự viêát
văn chuyên nghiệp. Bởi thế những nhận xét sai lầm của
ông có thể bắt nguồn một phần từ một sự thực không
thể từ chối được là ông không phải là người -trong-giới.
Là một công chức chăm chỉ đến nỗi phải "trộm giờ" của
sở để viết (trích lời Võ Phiến), Võ Phiến hầu như không
tham gia những hoạt động văn nghệ, không phải là người
có thể phê bình giới này nếu chỉ căn cứ trên sự quen
biết cá nhân để soi sáng tác phẩm. Như một người khác
viết rất hay về loại này, là Lô Răng Phan Lạc Phúc. Nhưng
nếu chỉ trông cậy vào văn chương thì cho đêán nay ai cũng
có thể kết luận một cách công bằng là ông không có khả
năng ấy. Đó chính là lý do cắt nghĩa tại sao trong rất nhiều
trường hợp ông phải ngụy chứng (trường hợp Vũ Hoàng
Chương), hay "cắt xén", dựa dẫm vào một tác giả khác (như
Cao Huy Khanh với Vũ Khắc Khoan), hay lạc đề một cách vô
cùng thê thảm như xách mé đến đời riêng của Nguyễn Thị
Hoàng (và Kim Lefèvre, một tác giả hoàn toàn xa lạ với Văn
Học miền Nam).
Aáy là chưa kể đến một
sự kiêän sẽ làm mọi người còn "bàng hoàng " hơn nữa (mà
tôi sẽ chứng minh đầy đủ sau với nhiều tác giả khác):
có thể Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Mai Thảo.ngoài
những cái "tôäi" trí thức, nổi đình đám, tài hoa.như đã
kể trên, hình như còn mắc cái tội.Bắc Kỳ nữa! Độc giả
cho là tôi nói ngoa chăng: hầu hết các nhà văn, nhà thơ bị
"ngáng chân" hay loại hẳn ra trong sáu tập sách của cụ Võ
viêát về Văn học Miền Nam đều là người Bắc: ngoài Vũ
Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Mặc Đỗ, Mai Thảo.còn
Tuệ Mai, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Hà Huyền Chi, Du
Tử Lê. Câu hỏi này càng đáng được nêu lên vì song song
với việc loại bỏ, tàn hại các nhà văn, nhà thơ người
Bắc, Võ Phiến lại lơ đi, không nhắc gì đến một sự việc
râát quan trọng khác: viêäc Túy Hồng (gốc Huế) viết nguyên
một tác phẩm (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách) để tự khen
mình một cách hết sức trơ trẽn và bản quán mình nhưng
lại chửi rủa, mạt sát người chôàng Thanh Nam và luôn cả
bản quán miền Bắc của Thanh Nam bằng một thứ ngôn ngữ
vô cùng nặc nô không thể tha thứ được. Hay chủ trương
của Võ Phiến là dùng văn chương để .trả thù riêng và
viết lại văn học sử Miêàn Nam từ cái "chiếu" của ông?
Riêng trường hợp của những nhà thơ mà Võ Phiến loại ra
như Tuệ Mai, Cung Trầm Tưởng, Trần Tuấn Kiêät, Hà Huyền
Chi, Du Tử Lê. thì tôi không tin rằng Võ Phiến có cách gì
bào chữa được: tên tuổi họ quá đủ để có một chỗ
trong văn học sử Miền Nam và sự thiếu sót này sẽ là một
sự vô cùng bất lợi cho chính nhà văn Võ Phiến. Võ Phiến
có quyền chê thơ họ nhưng khi cố tình bỏ qua mà lại nhặt
những người không xứng đáng vào hay những người chỉ có
một bài thơ mà thân thế mơ hồ cho đến nay vẫn không xác
định được là ai.thì không thể trách móc "dư luận" là
"dư luận " ấy đòi dậy, đòi "giáo dục" cụ Võ về
cách phê bình như cụ Võ vừa phàn nàn, mách cáo trong một
bài phỏng vâán của tờ Văn Học số 169, tháng năm, 2000.
Nhà phê bình nào "dám" loại các nhà thơ Tuệ Mai. Trần Tuấn
Kiệt, Cung Trầm Tưởng rôài Hà Huyền Chi, Du Tử Lê .ra khỏi
Thơ Miền Nam mà không bị "dư luận" .giáo dục cho vài
bài học?! Cụ Võ cư ngụ, sinh hoạt ở Miền Nam suốt mấy
chục năm của văn học Miêàn Nam, chứ có ở miền Bắc, ở
đường mòn Hồ Chí Minh đâu mà bảo là không biết? Tôi thực
không hiểu tại sao cụ Võ lại rất hâäm hà hâäm hực với
"dư luận" này. Hay cụ tưởng là "nhân chi sơ" mà "tính bản
.phê bình" thì chỉ có Võ Phiến mới có tính và có
quyêàn thôi?! Theo tôi, thế là còn may cho cụ Võ: cái dư
luận này xem ra còn rất lịch sự. Họ mà đặt câu hỏi
"bộ là cộng sản nằm vùng hay sao mà ra sách viết tầm bậy
tầm bạ và loại hết nhà văn nhà thơ miền Nam -nhất là
nhà thơ nhà văn di cư chống cộng hay từng phục vụ trong
quân đội miền Nam- y như bọn cộng sản viết về văn học
Miền Nam dzậy?" thì lôi thôi to đấy! Cụ cứ viết lách cho
tử tế, cho cẩn thận thì chẳng cần gì hậm hà hậm hực
hay cần ai cứu cụ kể cả cái tờ Văn Học và cái anh nhà
văn ở San Diego đang cắp tráp cho cụ.
Việc gì mà một nhà văn tên
tuổi như Võ Phiến lại phải chụp mũ cho độc giả, gọi
họ mơ hồ dư luận này, dư luận kia. là họ đòi
giáo dục cụ? Mà giáo dục không đúng sao? Nội cái
việc lôi đời riêng của hai nhà văn phụ nữ ra mà mỉa mai
như cụ Võ đã làm là đã đáng được.giáo dục lắm
rồi! Được các bậc thức giả chỉ bảo cho là quý. Bộ
cứ là "nhà văn" là thông thiên đạt địa à? Việc gì mà
một nhà phê bình-nếu có tư cách của một nhà phê bình-
lại không có can đảm trả lời những nghi vấn mà người
đọc nêu ra (như việc ngụy chứng tài liệu để vu oán cho
Vũ Hòang Chương chê thơ Đinh Hùng) mà lại cứ tiếp tục
vu oán, lần này cho nhiều độc giả khác là bắt beû
(Võ Phiến trả lời Văn Học, bđd)? Không những không trả
lời được, cụ Võ còn nhăéc tới cách viết của Kim Thánh
Thán và Vương Hồng Sển (giời ạ!). Các đại gia này viêát
gì thì viết, viết sao thì viết nhưng tôi có thể chắc chắn
một điều, ngay tại đây, rằng họ không có cách viết hết
sức vô lễ với một nhân vật lịch sử, hơn thế nữa, là
bậc anh hùng của dân tộc, như Võ Phiến đã (dám) viêát
về Bà Triệu, nguyên văn như sau:
-.sau đó bao nhiêu sách lịch
sử khác kéo nhau tiếp tục không ngừng. Mãi vâãn còn phải
tìm hiểu thêm, viết thêm,
còn lâu mới đủ sáng tỏ
mọi điều: các vua Hùng có hay không có? Mỗi vua sống
được mấy trăm năm? vú bà Triêäu ẩu đích thực dài
đúng mấy thước? v.v và v.v (Văn Học, sđd)
Tôi đọc câu này (vú bà
Triệu ẩu.) mà rởn cả người: Bà Triệu mà Võ Phiến
còn viết như thế, huống gì Nguyễn Thị Hoàng? Võ Phiến
nói câu này trong lúc mà ông gọi là "bộc bạch" (sđd)
với độc giả, nghĩa là nói với công chúng. "Nói với công
chúng" về những vấn đề văn chương, lịch sử mà còn sỗ
sàng, thô tục như vậy, thì không hiểu trong những lúc không
có ai, những lúc người quân tử .không cần giữ
mình lúc vắng người thì cụ Võ còn phát ngôn đến đâu
với những người tùy tùng chí thân như bạn ta Lê Tất Điều
(cũng có bút hiệu là .bé Aùi Nhơn) ?! Viết như thế mà không
đáng giáo dục sao? Viết lách như thế thì ø ẩu tả
thật và quả là "hậu sinh" Võ Phiến không .khả ái một tý
nào! Aáy là chưa kể đến chữ "ẩu". Chữ "Aåu" ai cũng biết
nghĩa là "đánh lộn" hay "bà già". Chữ "Ẫu" này do người
Tàu gọi Bà Triệu, gán cho bà cái tiếng ".không lấy chồng,
kết tập bè đảng, cướp phá các quận huyện." ( Thái
Bình Thiên hoàn vũ ký, Nhạc Sử đời Tống- trích lại của
giáo sư Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam-Thời
Lâäp Quốc, Quyển I, trang 107) vì họ viết sử để có lợi
cho họ. Còn với chúng ta, mọi sự đều không có gì quan trọng,
đáng tìm hiểu hơn là lý do khởi nghĩa của bà, hoàn cảnh
khởi nghĩa âáy, ngườiø đã muốn ".cưỡi cơn gió mạnh,
đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển đông, quét
sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối."
Bởi thế, ngay tại chỗ này
tôi cũng chê luôn các anh Văn Học. Vừa thôi chứ! Giờ này
mà không nhâän ra những sự quá quắt ấy, giờ này còn dở
trò bè cánh, giờ này còn ỉm đi những chuyện đó để đeo
râu đội mão bàn chuyện văn chương của Nguyễn Thị Hoàng
và văn chương, rồi văn học Miền Nam thì tệ quá, đáng xấu
hổ quáù. Mang tiếng là một người Việt, các anh không lẽ
không nói được một lời về sự qúa quắt này, "cong lưng
làm tì thiếp" (mượn lời Bà Triệu) cho những lời đùa bỡn
hết sức vô ý thức ấy? Mang tiếng là nhà văn, các anh không
thấy việc Võ Phiến lôi chuyện đời riêng của Nguyễn Thị
Hoàng lên một cuốn sách về văn học Miền Nam là đáng đặt
câu hỏi ư? Đời riêng của Nguyễn Thị Hoàng thì dính gì
đến văn chương? Hay có cần
tìm hiểu thêm (.) Bà Triệu
đích thực dài mấy thước như Võ Phiêán đã muốn.tìm
hiểu không? Chi tiết ấy có quyết định trọng đại gì đêán
cuộc khởi nghĩa của bà, cá tính xuất chúng của bà, sáng
tỏ gì thêm cho lịch sử? Bởi thế, không ai trách
các anh không có can đảm đặt những câu hỏi đó, không ai
muốn các anh phải đẩy bạn các anh vào "ngõ hẹp" cho "đời
tàn" luôn, không ai đòi hỏi các anh phải đặt câu hỏi tương
tự với Võ Phiến về .cuộc đời ái tình của ông; nhưng
nếu không thì thôi, hà tất phải bẻ ngoặt câu hỏi
sang khía-cạnh-văn-chương để giúp phương tiện ngáng chân
một nhà văn còn ở lại Việt Nam khó có phương tiện tự
bảo vệ, hà tất cho đăng những lời xúc phạm, phỉ
báng tới tiền nhân, tới lịch sử? Một người như Bà Triệu-
Nhụy Kiều Tướng Quân- cách đây bao nhiêu thế kỷ, đứng
lên "mặc áo giáp vàng", "đi guốc, cưỡi đâàu voi," (sđd)
ra trận, để lại câu nói bất hủ "quét sạch bờ cõi để
cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối" và "tự tử, sau khi chết
thành thần" (sđd) chứ không để bị bắt sống và làm nhục
khi thất bại; chẳng lẽ lại có một đám hậu duệ là lũ
các anh hủ văn ngồi bàn chuyện thô bỉ về bà? Đau đớn
thay mà cũng mỉa mai thay cho những kẻ chưa bao giờ phải cầm
gươm ra trận, mà chỉ ở chỗ trường văn trận bút cũng
đã không thể nói cho ngay, đứng cho thẳng, thì đừng nói
gì đến văn chương, dân tộc cho não người thêm.
Đây có lẽ là lần đâàu
tiên và cũng mong là lần cuối cùng trong lịch sử văn học
thấy xuất hiện cái hiện tượng một nhà văn tên tuổi và
một tạp chí "văn học" không dám nêu đích danh những người
phê bình mà phải "tự bạch" bằng cách nấp đằng sau hai
chữ "dư luận" và tự bào chữa bằng cách lôi luôn cả các
bậc anh thư của dân tộc ra nói nhảm như ở chỗ không người.
Tôi càng thành thực mong mỏi từ đây trở đi nhà văn Võ
Phiến (và cả tờ Văn Học) trước khi sướt mướt, khóc
mếu đóng kịch "phỏng vấn, bộc bạch" nên tập tuồng trước
cho khỏi vấp phạm (mượn chữ Kinh Thánh Tin Lành Việt
Nam). Hay là các bạn đã tập kỹ lăém rồi đááy chứ nhưng
vì đào kép (chỗ này thì phải đính chính ngay là không có
"đào" chỉ có mấy "kép độc" thôi) "y uông" quá nên chẳng
ra tuồng tích gì cả?!
Cho nên, xét kỹ lại sáu cuốn
phê bình văn học Miền Nam mà Võ văn hào vừa cho xuất bản
đây, tự nhiên lại lờ mờ thấy dáng hình một .ông thày
pháp, thoắt ẩn thoắt hiện sau những bức mành
mành văn tự. Võ văn hào có lời "khiếm nhã" với nhiêàu
nhà văn khác, với Vũ quân chẳng qua cũng tưởng chúng sinh
chỉ giỏi uống rượu vào những tiệc cưới xin, vào những
buổi tang ma cho cái cảnh tiễn người đi - đi xuống .địa
ngục hay vào Tiền Đường - đỡ tẻ. Nào có biết rượu
không chỉ để uống. Mà còn để rót. Dù là không biết
rót về nơi đâu. Bởi thế, Võ văn hào mới có cái
tác
phong phê bình (mượn chữ Viên Linh) làm người đọc
bàng hoàng (cũng mượn chữ Viên Linh) . Mới có những chữ
"hít khói, cà tơng, đi mất tiêu, giọng lưỡi nói năng" dành
cho một đồng nghiệp mà lại là một đồng nghiệp tiền
bối cỡ Vũ Khắc Khoan! Ngược lại, lại lôi đời riêng của
môät nhà văn ra bỉ thử (5), tuyên dương những nhà văn dùng
văn chương để búa những cái búa tạ vào quê hương, bản
quán của người hôn phối (6) hay nức nở ca ngợi một nhà
thơ trôäm chữ, lời và luôn cả ý của bản dịch Kinh Thánh
Tin Lành (7). Cụ Võ ở phâàn cuối cái kịch "y uông" đã long
trọng báo cho "dư luận" biết rằng cụ đã tự nhủ "Kiếp
sau chớ khảo chớ bình"(Văn Học, sđd). Đợi mãi tới
kiếp
sau cơ à? Không hiểu "Ta làm gì cho hết nửa đời sau"
(mượn thơ bé Aùi Nhơn Lê Tất Điêàu) ở kiếp này, nhưng
xin ta- Võ- Phiêán chớ khảo, chớ bình thêm về bà Triệu,
về văn học nữa là chúng tôi cũng đỡ hú vía lắm rồi!
Vì nếu không, có thể chỉ vài hôm nữa, chàng lại hớn hở
đăng đàn
chình ình (mượn chữ của chàng) ngay trên
tờ Văn Học để
viết thêm, để làm sáng toû
về cái việc
dài mấy thước thì anh em nhà văn Việt
Nam hải ngoại chỉ có nước độn thổ cùng với cả phái
nữ (là những người cùng phái với Bà Triệu).
Còn nhiều chuyện để bàn,
nhưng hà tất phải nói thêm, ở bài này!
B. THẨY PHÁP VẮN NGHỆ HẬU
1975
Dân ta từ khi bỏ nước, phải
xiêu tán khắp nơi, có mang theo nhiều "truyền thống". Có truyền
thống râát đáng được tiếp tục như "truyền thống " mặc
áo dài. Nhưng cái truyền thôáng xem ra đe dọa nhiều nhất
đến tình trạng văn nghệ là cái truyền thôáng thầy pháp
văn nghệ đã xuất hiện tiền 75 nay càng tệ lậu hơn hậu
75. Không cần ở California, nơi nào có cộng đồng người
Việt đông đảo là nơi ấy có những ông thầy pháp văn nghệ
này.
Một số các cô các cậu sau
khi bỏ rất nhiều thì giờ nhìn ngắm mình trong gương, cảm
thấy vẫn chưa hài lòng. Và quên mất là những hoạt động
văn nghệ hiệu đoàn không hề có họ hàng gì với sinh hoạt
văn chương, họ bèn hành hạ chúng ta bằng cách "làm thơ,
viết truyện". Để cho sự hành hạ này có "chính danh", họ
bèn cầu cứu các ông thày pháp văn nghệ. Thế là có màn
giới thiệu, ca ngợi, tặng bông, trình diễn.cứ inh ỏi cả
lên. Tất cả đều thành sĩ hết. Cứ cái đà này tiếp
diễn, chúng ta sẽ có cả tỉ
thi sĩ chứ chẳng phải
chơi. Từ "nữ sĩ" (nhưng sao không có nam sĩ?), ca sĩ
nhà nghề hay cây nhà lá vườn, cho đến cả các "ngâm sĩ"
-mà nếu không sang bên này- nghĩa llà không có một cuộc đổi
đời kinh thiên động địa- bảo đảm không đời nào họ
cạnh tranh được với những Hồ Điệp và Hồng Vân- đều
chói loe lóe trong những buổi ra mắt sách tưng bừng, quảng
cáo rầm rộ, có khi kéo từ tiểu bang này sang tiểu bang khác
với đầy đủ thi nhạc giao duyên (đúng như các cụ ta có
nói "thi" trung hữu họa, dịch chệch ra tiếng Ta là trong
thơ có .nhạc tả pí lù) như những cuộc viễn chinh của các
anh lính lê dương. Sửa soạn cho những cuộc viễn chinh tấn
công vào làng mạc văn chương không có bao cát để tự vệ
với những bưôåi trình diễn nặng mùi "con thuyêàn Nghệ
An" là những bài giới thiệu (hay tự giới thiêäu) làm người
đọc phát sốt phát rét như bài "một tỉ." mà tôi đã
dẫn. Có lần tôi đã được đọc bài của một nhà thơ tên
tuổi, rất- tên- tuổi, viết tràng giang đại hải ca ngợi
một người có giọng ngâm rất xoàng. Có lẽ những năm tù
cộng sản đã.tác hại lên sự suy xét của ông chăng? Đây
là một dịp ngàn vàng để chụp mũ cộng sản rằng chính
họ phải chịu trách nhiệm về những trò quái đản này!
Lần khác, một ông trong giới
truyền thông lấy hết sức bình sinh ca ngợi một "ngâm sĩ"
khác là "tài sắc vẹn toàn" (trích một tờ báo ở Seattle,Washington)
dù người này cho đến nay vẫn chửa thấy cái tài gì kinh
thiên động địa lắm. Có mỗi tài ngâm thì chỉ vào
cỡ -hay dám còn thua- các cô ngâm thơ tài tử, nhất là các
cô hoa khôi kiêm Trưởng Ban Văn Nghệ, Báo Chí của các trường
nữ trung học ngày xưa. Bốc một người chỉ có "tài" ngâm
vài bài thơ là "tài sắc vẹn toàn" thì không hiểu khi
ông phải viêát đến những nghệ sĩ thứ thiệt như Thanh
Nga, Bạch Tuyết hay viết về những phụ nữ có tài cứu lụt,
tranh đấu .thì ông "bốc làm sao, tán làm sao bây giờ", nhỉ?
Nhưng ông này thế mà khéo: ông chỉ nói về tài và
sắc,
ông để cái chữ "đức" yên thân. Tưởng tượng sau những
"tài" và "sắc" này mà ông lại còn cặm cụi tán về chữ
"đức" và "hạnh" của các đương sự nữa thì chúng ta còn
đến là khôán khổ. Riêng phần sắc thì xin kiêng mà
không có lời bàn La Sát vì đẹp xấu xưa nay vẫn
tùy ngừơi
đối diêän,
nháát là những người đối diện
rất
ấm ớ kiểu ông này.Oâng này nghe đâu sang Mỹ từ lâu.
Vì thế, ta có quyền đổ tội viết nhảm của ông cho "bơ
sữa của đế quốc Mỹ" để cân bằng với "tội ác cộng
sản" ở trường hợp trên.
Không biết tự bao giờ mà
cái khổ nạn này bắt đầu. Hiện tượng này làm các nhà
văn, nhà thơ bị chết oan. Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc
viết một bài nẩy lửa về cái mà ông gọi là "Sống và
viết như những người lưu vong":
-.Với sinh hoạt văn học
ở quốc gia chúng ta đang sống, chúng ta cũng lại là những
người đứng bên lề, một thứ nhà văn sắc tộc khiêm tốn
và buồn thảm, đứng bên lề những sinh hoạt chính mạch
của thiên hạ [.] Ở hải ngoại, viết văn không thể là một
nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn là một danh
phận.
Có lẽ cái nhầm của Nguyễn
Hưng Quốc ở đây là đồng hóa những ngươiø cầm bút với
những người không xứng đáng được xếp vào cùng giới
với họ. Tôi chưa thấy một nhà văn hay nhà thơ nào mà phải
cần tới những ông thày pháp văn nghệ, phải dở tới nhưnõg
trò tiểu xảo nói trên. Tôi chưa thấy một người chuyên
cần làm viêäc nào mà mặt mũi lên đầy trên những tờ báo
chợ với những bài giới thiệu kỳ quặc. Nếu phải tính
sổ cuôái năm, có ngừơi cầm bút nào -đúng nghĩa nhà văn,
nhà phê bình, nhà thơ- mà lại có những bài tán tụng lố
lăng caiù kiêåu
một tỉ người khác không làm được
hay gõ trống khua chiêng ầm ỹ với những "tác phẩm" mở
ra chỉ thấy toàn hình.tác giả?! Cách đây mười mấy năm,
một tạp chí văn học đã phải chính thức bàn đến những
hiện tượng nhăng nhố này vì nó đe dọa đến sinh hoạt
văn nghệ đích thực, khiến lâu ngày người ta chán ngán,
đồng hóa cả giới vào những trò nhảm ấy (như Nguyễn Hưng
Quốc đã làm mới đây):
-. NNN vừa cho ra mắt tập
truyện MMM, như vâäy đương nhiên là nhà văn. NNN còn làm
thơ đăng báo, như vậy là thi sĩ. Cô còn làm người mẫu
rất ăn ảnh, rất sexy, hình mẫu in ở bìa và cuối sách đã
làm bằng chứng cho độ ăn ảnh của mình. Chưa hết, người
thơ, người văn, người mẫu còn kiêm thêm nghề ca sĩ, cho
đầy đủ thập bát ban văn nghệ! Sinh hoạt "văn học" trở
nên náo nhiệt kèn trống, vui ra phết! [Văn Học số 19,
trang 138, 8.87-Xin tạm viết tắt tên nhân vật được Văn Học.hài
tội (NNN) ]
Mười ba năm sau khi tờ Văn
Học "gồng mình" (8) phê bình .nữ sĩ nói trên, cái họa
người thơ, người văn, người mẫu kiêm thêm nghề ca sĩ
hay nghề ngâm sĩ chỉ có tăng mà không có giảm. Số thày
pháp văn nghệ cũng tăng với mực độ càng kịch liệt hơn
để đáp ứng nhu cầu "cấp bách" này.
Võ Đình, một họa sĩ kiêm
văn sĩ có danh phận và .nghề nghiệp (nghề vẽ)
đàng hoàng, viết một bài nẩy lửa (9) không kém để phản
bác Nguyễn Hưng Quốc và để cho thấy người ta không nhắc
đến những hiện tượng này vì người ta không muốn chứ
không phải người ta không biết:
-.Biết đâu khi Nguyễn Hưng
Quốc viết hai chữ "buồn thảm" ông cũng có nghĩ đến những
hiện tưọng đã và đang xẩy ra ở hải ngoại trong giới
"viết văn" nói riêng, làm "văn nghệ" nói chung. Tôi ngờ rằng
chính những hiện tượng này là những gì khiến cho cái thân
phận "khiêm tốn" và hoàn cảnh đứng "bên lề" trở nên rất
buồn thảm. Rất buồn thảm. Hiện tượng in sách và ra mắt
sách chẳng hạn.Thời buổi này, đối với những người tị
nạn cũ ở những nước tư bản giàu có, in một cuốn sách
nhỏ không phải là một chuyện khó. Cũng bìa màu, cũng phụ
bản, cũng tựa, cũng bạt, và nếu là thơ thì cũng phải có
vài bài được phổ nhạc. Đâu đó trong sách in thêm dăm ba
nhận xét "xin" được từ vài bậc "chiêáu trên". Nói là "xin"
chứ thiệt ra lắm khi "xin" không được thì thôi thúc, thì
năn nỉ, thì áp đảo, thì .mua chuộc. Sách in xong, lại có
những "buổi ra mắt". Quen biết khắp nơi được huy động,
trưng dụng, đôn đốc. Giờ phút huy hoàng điểm một cái
là có nhà văn nhà thơ này, học giả nghệ sĩ nọ lên máy
"vi âm "kính thưa quý vị".Lời nói không máát tiền mua", thôi
thì bao nhiêu được "lựa" đem ra cả "cho vừa lòng nhau" [.]
Aáy vậy mà khi cần khen ngợi vì nhu cầu xã giao thì đồng
bào ta lại đưa nghệ thuật đầu môi chót lưỡi lên đến
mức tuyệt xảo. Nghe hay đọc những lời ca tụng kiểu này
của những vị "giới thiệu" mà lấy làm ngượng cho người
nói, người viết. Tai hại hơn cả là những "tác giả" được
ca tụng lại săün sàng ôm cứng lấy những lời nịnh hót
như những sự thực muôn đời ...Thế là cái nhãn hiệu "nhà
văn" "nhà thơ" coi như được cầu chứng. (Việt, số 3,
trang 240)
Trước khi đồng ý với họa
sĩ Võ Đình, tôi thấy cần có một nhận xét riêng: hình như
chỉ có ở hải ngoại, người ta - kể cả những người
ta có tên tuổi- mới đồng lõa với những trò "đầu môi
chót lưỡi" này. Đây là một sự sa đọa rất đáng buồn
về sĩ khí, về phẩm giá người nghệ sĩ khi người ta nghiễm
nhiên ca tụng và nhận những lời ca tụng ấy như những chuyện
vô cùng tự nhiên mà tôi chứng kiến rất nhiều trong các
buôåi ra mắt sách. Thay vì nói thẳng vào tác phẩm thì người
ta lại nói (quá nhiều) tới những thứ linh tinh khác. Tác
phâåm chỉ là một cái cớ để người ta ban phát và nhận
lấy những lời khen mà tôi nghĩ chắc chắn sẽ làm các cụ
như Nguyễn Khuyến đỏ mặt và Trần Tế Xương phải chua
chát làm thêm dăm bẩy bài "Lẳng lặng mà nghe."
Còn ở những khoản khác, nhà
văn Võ Đình không những nói đúng, mà còn nói hộ cho sinh
linh, những sinh linh thâáp cổ bé miệng. Chúng ta hẳn không
lạ gì cái hình ảnh tội nghiệp, buồn thảm của một
số "tác giả" chuyên cướp sân khấu để không cần ai mời
cũng "bẹo hình bẹo dạng" ngâm những bài thơ (giời ạ!)
của họ và xấn đến những nhà văn tên tuổi để có dịp
chụp- hình- lưu- niệm và mai mốt cho in đầy vào những tập
thơ lá cải mà hình sẽ nhiều hơn chữ hay những "hồi ký"
rùng rợn của họ. Vì không "biết người biêát ta", họ tưởng
đâu cứ cho xuất bản là tên tuổi (và cả mặt mũi nữa,
như trường hợp cô NNN mà tờ Văn Học đã.nhiếc cho đến
nơi đến chốn) sẽ tồn tại tới ngàn thu mây bay chăng. Nhưng
văn chương không đồng nghĩa với những "catalog" bày hàng
và sau vài ba năm nước chảy qua cầu, nhưnõg "tác phâåm"
ấy chỉ là chứng tích của những sự tiêu phí tiền bạc
mà nếu đem ra làm phúc thì cũng hơn xây cả bao nhiêu cái
"phù đồ". Thông dụng hơn nữa, là cái màn xướng họa thù
tạc vô thưởng vô phạt, chẳng ra làm sao cả. Những tác
giả loại này vẫn chăm chắm đợi những cuộc "tự phỏng
vấn" để lập tức tuyên bố rằng họ "làm thơ và chỉ biết
làm thơ, đọc thơ." Nêáu họ bỏ thơ mà hành nghề khác thì
có phải là đỡ khổ cho toàn dân và giấy mực biết mááy
không!
Nhưng những "tác giả" này
kể ra không đáng tội bằng những ông thầy pháp văn nghệ
đã cố vấn cho họ. Thôi thì cũng chẳng thua gì các ông thầy
pháp Tây Y trên kia là mấy. Cũng quảng cáo phép màu (thơ
thẩn mà biến thành thơ), cũng toàn là hàng giả
(mới chỉ là .thiêu thân mà đã quảng cáo là bướm,
là cỡ Hồ Điệp; mới chỉ
thường thường bậc trung
mà đã dọa độc giả là
tài sắc vẹn toàn), cũng toan
tính dùng "văn chương" để lừa thiên hạ cũng như đã dùng
thủ thuật "giải phẫu" để đánh lừa các con mắt phàm của
chúng ta.
Có đôi khi, một nhà văn có
tên (và có tuổi, tuổi áng chừng nhiều hơn tên) bỗng biến
thành thày pháp ngang xương mà dở chứng xưng tụng những
người không xứng đáng cốt để kéo âm binh làm vây cánh
hòng dè bỉu, trả thù một người cầm bút khác đã "dám"
phê bình anh ta. Ở trường hợp này, nhà văn ấy tự hạ mình
xuống và lập tức gia nhập vào thế giới của những trò
rởm, của những ông bình vôi văn nghệ mà Võ Đình nhắc
đến:
-.Buồn thảm hơn nữa là
cái đầu óc "ếch nằm đáy giếng" của một số người làm
văn nghệ gọi là đã "thành danh". Trong cái cộng đồng nhỏ
bé họ là những ông bình vôi. Họ làm văn nghệ bằng cách
dựa vào cái danh vọng mốc meo của họ, kiểu những nhà lãnh
đạo chẳng làm gì ích quốc lợi dân mà chỉ ôm cứng lấy
cái ghế cũ rích nhưng còn đầy thế lực. Cái viết cái vẽ
trở thành những thứ, không phải là trò rởm vô tội vạ
của nhũng "nghệ sĩ tay mơ" kia mà là để nhắc nhở sự có
mặt của họ, để hù dọa những kẻ ngây thơ sính văn nghệ,
để ra cái điêàu ta đây còn tồn tại và sáng tạo đầy
mình. Nhũng nghệ sĩ "tên tuổi" này , thật ra, đánh lẫn tình
yêu quê hương với niềm "tự hào dân tộc". Đánh lẫn tình
yêu văn học nghệ thuật với nỗi vui đình đám. Và tệ hại
hơn cả, đánh lẫn nỗi thao thức về cội nguồn với niềm
"kiêu hãnh văn hóa". Tình yêu chân thành và sâu đậm thì vắng
măët. "Tự hào" và "kiêu hãnh" thì lại toàn của giả. Hỏi
có gì buồn thảm hơn. Có điều oái oăm ở đây. "Khiêm tốn"
và đứng "bên lề" không có gì là buồn thảm. Trong khi những
kẻ thật là buồn thảm thì lại không hề biết rằng mình
quá ư là"khiêm tốn". Có cờ lọng mũ mãng và chiêng trống
xập xõa cách mấy đi nữa mình cũng chỉ là kẻ đứng bên
lề". Văn học nghệ thuật quả là thứ khó xài.(trang 241,
sđd)
Liều hơn, có chàng-hay nàng-thầy
pháp lại dám gán cho độc giả, khán giả, thính giả những
điều bịa đặt hết sức lố bịch:
-".XXX không phát hành ồn
ào. XXX thực hiện những . của mình một cách cẩn trọng
như là những tác phẩm nghệ thuật. XXX bắt giới thưởng
ngoạn phải chờ đợi, tuy nhiên mọi người không bao giờ
phải thất vọng với XXX." (nguyệt san đã dẫn, California)
vv và vv.
Cũng trên thực tế, chẳng
có mống nào lại dư thì giờ "chờ đợi" những tác
-phẩm -nghệ-thuật -vô. giá này cả cho dù tác giả của nó
có phát hành ồn ào hay rất ồn ào đi chăng
nữa. Nếu quả thực tác giả nổi tiếng đến nỗi
băét được giới thưởng ngoạn phải chờ đợi,
nếu quả thực tác giả là người có tý tự trọng (nhâát
là tự trọng), tý thực tài. thì đã không phải sử dụng
tới những bài viết nhố nhăng "ba đôàng một mớ" rất ồn
ào kiêåu ấy để tự quảng cáo. Còn "thất vọng"?!
Có ai "hy vọng" gì vào những "tác giả" mà văn thơ thuộc
loại còn tệ hơn những "câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An",
thứ tác giả thuộc loại "chài mồi văn nghệ" để mong kiếm
chút hư danh? Một nhà văn có một chữ khác cho những kẻ
này: ấy là chữ "sêán văn nghệ". Tôi không dám noi gương
bạn ta vì thứ nhất chữ "chaiø mồi văn nghệ" của tôi chính
xác hơn: dùng sự quen biết và những thứ võ bí mật của
phụ nữ để các anh trai văn nghệ chuyên cả nể, thiếu bản
lĩnh (và thực tài) nâng đỡ họ lên. Hai nữa, làm "sến"
không có gì là xâáu cả. Nói thế vô hình chung nhục mạ
các cô sến và rất có hy vọng được tăëng vài cái đòn
gánh hay dăm bẩy cái guốc cao gót (bởi thế xin tạm dấu
tên bạn ta nhà văn này).
Đây là thí-dụ-điêån-hình
mà Võ Đình đã nhắc tới ở trên: những XXX này rồi
ra sẽ "saün sàng ôm cứng lấy những lời nịnh hót như
những sự thực muôn đời" để dở những trò rởm ra
mà cứ đinh ninh là mình làm văn nghệ vì không ai có đủ
can đảm hay .cái tàn nhẫn để nói nhỏ với họ rằng :"này,
có chiêng trôáng xập xõa cách mấy đi nữa, bạn cũng
chỉ là kẻ đứng bên lề, thôi về mà hành nghề
khác cho chúng tôi yên thân" như Võ Đình từng phải.hét lớn
trong bài của ông. Đây cũng là thí dụ của những lời
giới thiệu mà đọc lên lấy làm ngượng cho cả người ca
tụng lẫn người được ca tụng. Ở trường hợp này,
không những ngượng, chúng ta còn muôán đem cả người
ca tụng lẫn người được ca tụng ra phát cho vài cái giấy
phạt vì phạm tội "mặt trơ trán bóng" khi đã vu cho chúng
ta những sự "chờ đợi" hay "hy vọng" hoàn toàn không có thực.
Mặt trời vẫn đổ lửa, trái đất vẫn quay đều, những
tỷ người ta khác vẫn sinh hoạt bình thường, vẫn đi
chợ, vẫn mua sổ xố kiến thiết quốc gia và cầu Trời khẩn
Phật để trúng độc đắc, vẫn có hằng hà sa số những
tác phẩm nghệ thuật (đúng nghĩa) để mua, để đọc, để
xem, để bàn tán, để "xem người lại ngẫm đêán ta." Chúng
ta hẳn không lạ gì những "tác giả" ồn ào ở trên,
những người rất dễ nhận ra trong các hội hè đình đám
vì lúc nào họ cũng cố chen vào cho có ảnh, saün sàng chiếm
sân khấu để rên rỉ những bài thơ vừa- dài- vừa- dở,
"liếc măét đưa tình" với các ông thầy pháp văn nghệ ra
cái điều em-đang-còn-cô-độc (nhại thơ Thanh Tâm Tuyền)
hay em- chửa- có - ai (quan họ Bắc Ninh). Sau đó họ sẽ tung
tiền quảng cáo để các thân chủ báo chợ phải đăng những
bản tin đại loại như sau:
-..Ngày hôm qua, XXX đã ra
mắt tập thơ Y ở một tiệm ăn với những món ăn và
cách tiếp đãi lãng mạn nhất ở quận Cam. Tập thơ này
rất đặc biệt vì do họa sĩ Z viết tay. Bìa trước và bìa
sau có hình tác giả bảy màu lộng lẫy. Nhờ con mắt nghệ
thuật và bàn tay có hoa, XXX đã tự trang điêåm lâáy. Chính
bà LLL, chủ nhà may áo dài Con Rêát đã vẽ kiểu cho áo cô
mặc hôm nay. Tập thơ có 50 bài thì đã 49 bài rưỡi được
phổ nhạc bởi nhạc sĩ danh tiếng đàn cò T. Có bẩy họa
sĩ vẽ chân dung tác giả và tâát cả đã được mời lên
sân khấu tặng bông, chụp hình lưu niệm để sau này rửa
lớn như những cái mẹt đăëng treo trong văn phòng XXX rồi
phát không cho "ông đi qua, bà đi lại" và chuyển về Việt
Nam để tiêáp tục giữ lửa cho truyền thống "câu thơ
thi xã, con thuyền Nghệ An". Thi hào S đọc bài diễn văn
dài đúng 2 giờ 26 phút, bàn về những dòng thơ trác tuyệt
của XXX, ca ngợi XXX "tài sắc vẹn
toàn" và "phép
lạ đã xẩy ra ở thủ đô tî nạn". XXX đã "bắt giới
thưởng ngoạn phải chờ đợi", "tuy nhiên mọi người
đã không bao giờ phải thất vọng" với tài làm thơ,
ca, múa của XXX mà người ta "khó ai có thể tưởng tượng
XXX có thể làm". XXX ngâm và ca với sự phụ họa của tiếng
đàn tranh của văn hào H và tiêáng sáo của họa gia D. Bọn
côäng sản .nên lấy làm xấu hổ vì dù chúng áp đặt chế
độ độc tài phi nhân lên Viêät Nam, vẫn có XXX chạy thoát
ra ngoại quốc, được dịp đổi đời thành nhà thơ, nhà
nghệ thuật, nhà trò, nhà biêåu diễn. Mai kia biết đâu chừng
lại kiêm thêm nghề họa sĩ đại tài làm nở mặt cho các
họa sĩ Miền Nam tự do như Nguyễn Trung.Nghĩa là làm được
những thứ mà "một tỉ".cán bộ cộng sản gian ác "không
làm được". Xin độc giả theo dõi hình ảnh kèm theo bài
tường thuật từ trang 2 tới trang 100 trong số này.
Những hiện tượng thê thảm,
quê kệch như đã nói trên sẽ còn tồn tại dài dài cho đêán
khi nào những thày pháp văn nghệ vẫn còn đâát sống vì
nhu cầu của những kẻ chài môài văn nghệ, vẫn còn những
ông chủ báo vì cả nể mà.nhắm mắt đưa in; hay đúng hơn,
vì vẫn không bị những "thần núi Tản"- là độc giả, là
chúng ta- chính thức và công khai phản đối hay yểm vài cái
bùa cho .ngọng hết đi. Không khéo mà "thủ đô tî nạn" lại
đúng với cái tên tiền định của nó: thủ đô của những
người .tî -nạn -những -buổi -ra -mắt -sách- và- những -thày-pháp-văn-nghệ.
Cuối tuần chúng tôi vẫn phải chạy túa ra biển, lên núi.
Chỉ có các bạn từ xa tới mới mắc lỡm mà thôi! Chúng
ta thường nghe nói tới những "sa-lông văn nghệ" ở các kinh
đô ánh sáng với những văn nghệ sĩ độc đáo, có tài. Chúng
ta cũng đã nghe không ít thì nhiều về những trào lưu văn
chương mà những nhà văn tham dự đều là những "gã khôång
lồ" của văn chương trong thời đại họ. Nhưng lăm le "tái
diễn" ở đây với những ông thày pháp văn nghệ, những thi
sĩ chưa- lên- mà- đã- xuống, những kẻ "chài mồi văn nghệ"
và những ngâm sĩ-tài-sắc-vẹn-toàn thì đúng là đau đớn
cho văn nghệ quá.
Những trò múa rôái này không
thể nhầm lẫn với văn chương và nghệ thuật, là những
lĩnh vực cần sự học hỏi trau giồi hay sáng tác trong sự
cô độc. Văn chương chứ có phải là .tiệm thạch chè Hiển
Khánh (10) đâu mà tự tiện sử dụng thơ văn (và cả chân
dung, hình ảnh) của các tác giả nổi tiếng để lòe giới
thưởng ngoạn là phục vụ nghệ thuật và "thân thiết"
với các tác giả? Dù gì tiệm thạch chè Hiển Khánh cũng
không có tội: chủ tiệm Hiển Khánh cung câáp một chỗ cho
văn nghệ hiệu đoàn và không bao giờ ra cái điều là chúng
-tôi- làm- nghệ- thuật hay quen- biết- các -văn- sĩ -đại
-tài. Thê thảm nhất là những "sa--lông văn nghệ" trá hình
dưới những văn phòng làm việc, từ sửa sắc đẹp, xâm
lông mi lông mày, cho đến bán nhà bán đất, bán bát nháo
thượng vàng hạ cám, cái kiểu :".Từ năm 1991, phòng uốn
tóc của BBB trở thành cái xa-lông văn nghệ. Ở Paris, tin
tức các văn nghệ sĩ ở hải ngoại được thông báo, truyền
thông ở chỗ hành nghề của cô." (lại Hồ Trường An,
trang 154, sđd.)
Tôi thực tình không hiểu thứ
"tin tức" văn học gì của các "văn nghệ sĩ ở hải ngoại"
nào được thông báo, truyền thông ở đây?! Chủ tiệm Hiển
Khánh không bao giờ tự nhận chỗ buôn bán là một chỗ "sa-lông
văn nghệ" hay "lãng mạn". Ở Việt Nam, chữ này đã bị lạm
dụng, nay ra ngoài nước, chữ "lãng mạn" (11) là một trong
những chữ cần được cho ngay vào viện bảo tàng để bảo
vệ nó. Các cô yêu một ông có chính thất và dăm bẩy nhi
đồng cũng sướt mướt tự nhận mối tình của mình là "lãng
mạn"; một cô em bỏ nhà ra đi sau thành nhà thơ, nhà văn cũng
được các nhà phê bình phong thánh "lãng mạn"; yêu thơ và
nhất định đòi yêu luôn nhà thơ dù chàng có thể rơi vào
trường hợp Trương Chi "người thì thâät .xấu, viết thì
thật hay" cũng tự xưng "lãng mạn", làm dăm bâåy bài thơ
thi xaõ cũng vội vội vàng vàng "lãng mạn" . Nhưng cũng
chưa làm bá tánh kinh hãi bằng một trường hợp mới đây.
Chữ "lãng mạn" nay được dùng cho cả món ăn và cách
phục
vụ như trong môät bài quảng cáo cho một tiêäm ăn đăng
trên một tờ báo tuần tại Little Saigon: ".Lãng mạn, vì
món ăn độc đáo, vì cách phục vụ ân cần.". Viết lách
kiểu này thì chẳng bao lâu nữa, báo chí sẽ tràn lan những
câu như " Hôm qua, cụ Võ Phiến đi một đôi giầy rất lãng
mạn khi đến tòa soạn Văn Học trả lời phỏng vấn".
Hay "Siêu thị 007 nổi tiếng
lãng mạn vì cáchphục
vụ ân cần nhất quận Cam. Mua một, tính tiền gấp hai,
ba. Những lọ cà muối được xếp bên những hũ tôm chua thịt
luộc trông cũng thật lãng mạn Không những thế, tôm
cá, lươn êách của chúng tôi cũng rất
lãng mạn, chúng
ngoan ngoãn nằm trong những thùng đựng đá. Không đời nào
có chuyện nhẩy xôm xôm ra ngoài làm giật mình những cô tiểu
thư lãng mạn đi chợ về làm những
món ănlãng mạn
cho mối tình lãng mạn của mình. .vv và vv" Đúng là
hết thuốc chữa!
Bởi thế, chủ nhân những
chỗ hàng quán ồn ào với những tiếng húp canh sùm sụp,
những lời thì thầm bàn chuyện áp-phe, chuyện thày pháp giải
phẫu thẩm mỹ hay cả những tiếng %$#@! .không nên lôi những
chữ sa-lông văn ngheä hay lãng mạn, trữ tình.vào
để làm khổ chúng. Nếu đã không đủ tài năng để hướng
dẫn "người thưởng ngoạn", tưởng cũng không nên làm hạ
gía văn nghệ thêm nữa bằng cách cho nó thường xuyên ngôài
cùng chỗ (nghĩa đen) với nước mắm Phú Quốc, xì dâàu Maggi,
hành tỏi tương ớt, ở những chỗ mà "chiếc bình hoa trang
trí nay thành chiêác .bình tương." Cái "cảnh tượng đêm nay"
quả là não nùng ai oán khi những bài thơ hay nhất của chúng
ta bị đóng đinh trên tường, như Chúa chịu khổ hình, ngày
ngày nhăn mũi với những mùi dầu mỡ và chứng kiến những
cảnh "chài mồi văn nghệ", những buổi ra mắt sách kiêåu
đó.
Độc giả Võ Đình đã thử
yểm bùa bằng môät kết luận hơi nặng (có lẽ vừa ..bị
đi dự một buổi "ra mắt sách" chăng?!) ở phần cuối "cái
bùa" của ông nhưng chúng ta lại phải đồng ý với
ông hoàn
toàn:"Chỉ những con êách mới hiu hiu tự đắc. Những con
ếch rất buồn thảm. Rất đáng thương" (trang 241, bài
đã dẫn). Cái "truyền thống" thày pháp ấy nay tiếp tục
ở ngoại quốc để nẩy ra những
ngôi sao, những công
chúa của thi ca, những người tài sắc vẹn toàn, những
sa-lông văn nghệ, những tỉ kẻ chài mồi văn nghệ
.thì cũng có gì là lạ?
Eách- văn -nghệ (12) có nhiều
loại, dễ chừng không thua gì hai mươi loại bác sĩ giải
phẫu thẩm mỹ đại tài đã được khoe ở trên:
có thứ hiu hiu tự đắc, có thứ buồn thảm, có
thứ đáng thương, có thứ gồm-cả-ba-đặc- tính-trên.
Sao những nơi chúng ta cư ngụ không phải là đáy giếng
mà vẫn có nhiều .ếch đến thế nhỉ?!
NGUYỄN
TÀ CÚC
Chú thích:
(1) Tôi không viết rõ tên
những ngôi sao thi ca, những
công chúa thi ca, những ngâm sĩ
tài sắc vẹn toàn, những kẻ chài mồi văn nghệ, những quý
cô làm -được -một tỉ- những- cái- mà- chúng- tôi không-
làm- được kiểu cô XXX nói trên như dụ dỗ những người
đồng phái với mình độn những túi nước biển vào vòng
số 1 để lấy hoa hồng và những tờ báo đăng những bài
báo vô giá.trị này, vì tôi quan niệm (và cũng là chủ trương
của tôi khi viết loạt Từ Một Góc California) rằng tôi chỉ
viết về "hiện tượng", những hiện tượng trái tai gai mắt,
khôi hài xẩy ra Ở Một Góc CA nơi tôi cư ngụ và có thể
cũng xẩy ra ở những chỗ các bạn cư ngụ. Vì chỉ quan tâm
đến hiện tượng, tôi không cần nêu danh tính những người
gây ra hiện tựơng ấy. Vì nếu thế thì bài này sẽ dài
vô tận! Nhưng tôi vẫn còn giữ đầy đủ những bài báo
mà tôi dẫn, để có bằng cớ là tôi không .bịa về những
hiện tượng kinh hãi đó. Ngựơc lại, tôi nêu tên những
tác giả tên tuổi, những người có trách nhiệm và đủ phương
tiện để trả lời tôi, nếu muốn.
(2) Ám Trung Bát Tiên Ca
Lý Bạch nháát đấu thi
bách thiên
Trường-An thị thượng
tửu gia miên
Thiên tử hô lai bâát thướng
thuyền
Tự xưng thần thị tửu
trung tiên
Đỗ Mục
(3) Kim Lũ Y
Khuyến quân mạc tích kim
lũ y,
Khuyến quân tích thủ thiếu
niên thì.
Hoa khai kham chiết trực
tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết
chi.
Đỗ Thu Nương
(4) Hai Chừa
Một trà một rượu một
đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy
ta
Chừa được cái gì hay
cái nấy
Có chăng chừa rượu với
chừa trà
Trần Tế Xương (Tú Xương
)
(5) Nguyễn Thị Hoàng
(6) Túy Hồng (gốc Huế)
mạt sát nơi sinh quán, dân tình, thậm chí cả món ăn (miền
Bắc) của chồng (Thanh Nam). Xin xem dẫn chứng đầy đủ trong
"Tạp Bút Không Phải là Phê Bình Văn Học" (Nguyễn Tà Cúc).Thanh
Nam có tiếng hào sảng với bạn bè và quen biết nhiều giới
văn nghệ. Thanh Nam có tập thơ "Đất Khách" xuất bản ở
Hoa Kỳ: tâm sự u uẩn và da diết của người phải lưu xứ.
(7) Trong ít nhất là hai bài
thơ của tập "Nhã Ca Mới", Nhã Ca đã trộm chữ và
luôn
cả lời (không phải chỉ có ý) của thiên "Nhã Ca của
Sa -Lô -Môn." Sở dĩ sự lấy cắp này không bào chữa - hay
chối cãi- được vì những chữ đó là những chữ rất đăëc
biệt trong bản dịch của Kinh Thánh Tin Lành Việt Nam (không
giống với bản dịch của Kinh thánh Thiên Chúa Giáo.) Khác
với ngôn ngữ nhà Phật mà bất cứ một người Viêät Nam
nào cũng đã nhập tâm, những chữ mà Nhã Ca đánh cắp của
bản dịch Kinh Thánh Tin Lành như "ái
tình tôi, người nữ, lương nhơn." là những chữ chỉ của
người dịch Kinh Thánh Tin Lành và là chữ của địa phương
(nơi người dịch này sinh trưởng) rất mới mẻ với chúng
ta. Có rất nhiều chứng cớ để cho thấy người dịch này
chính là nhà thơ Phan Khôi. Đó là chưa nói đến việc lấy
cắp luôn cả lời và ý rồi xoay đi để cố tình lừa độc
giả. Đây là một sự "đạo chích" có chủ tâm vì chính
Nhã Ca thú nhận trong một bài phỏng vâán trước 1975 là bút
hiệu đã lấy từ Kinh Tháønh và Nhã Ca không đọc được
ngoại ngữ, chỉ đọc được bản dịch. Môät trong những
bản dịch này chắc chắn phải là ..Kinh Thánh Tin Lành! Ngay
cả cái bút hiệu mà còn phải "trộm" của Kinh Thánh thì hình
như óc tưởng tượng của"nhà thơ Nhã Ca" không được dồi
dào cho lắm. Đã thế mà còn "lậy ông tôi ở bụi này" bằng
cách lấy trộm từ ngay Kinh Thánh, từ ngay chính thiên Nhã
ca của Salomon thì quả bạn ta hoặc là dại dột hoặc là
.coi thường độc giả và Salomon quá xá! Xin xem dẫn chứng
trong TBKPLPBVH (NTC).
(8) và (9) Tôi dùng chữ "gồng
mình" là có ý .khen các bạn ta Văn Học đã có "can đảm"
nêu đích danh nữ sĩ và thứ trò rởm này lên báo, với
đâày đủ chi tiêát. Và cũng là sự cảm ơn không riêng của
tôi mà của độc giả tới nhà văn Võ Đình khi ông chính
thức viết ra những điều tệ hại của những người không
có khả năng văn chương và cái tình cảnh bát nháo xưng tụng
rất trơ trẽn bây giờ của họ để nói rõ một điều: những
người ááy không bao giờ lại có thể thuộc giới văn chương.
Những tạp chí văn học, những người viết văn thường phải
cân nhắc rất nhiều trước khi viết -hay không viết- đến
những nhân sự và những trò rởm này. Là nhà văn, họ không
muốn ngòi bút của họ phải phí vào những chuyêän không
đáng. Aáy là chưa kể việc có thể bị chụp đủ thứ mũ
từ mũ "ghen tài" cho tới mũ "ghen tuông"bởi các ông thày pháp
văn nghệ đang hết sức bình sinh lăng-xê những nữ sĩ
và nam sĩ này, hay tiện việc "đánh hôi" những người
phê bình dám phê bình các ông bình vôi văn nghệ. Nhưng
nên viết ra nếu chúng ta còn muốn thực sự sửa đổi, còn
muốn "cứu vãn" sinh hoạt văn nghệ ở đây.
(10) Tiệm thạch chè Hiển
Khánh (tại đường Phan Đình Phùng, gần Cao Thắng - Sàigon)
là tên của một tiệm bán giải khát và các món bánh ngọt,
rất nổi tiếng với món chè đậu xanh lạnh tán nhuyễn, có
điểm những sợi thạch thái băèng cỡ như những sợi chỉ
len (do đó mới được gọi là tiệm "thạch chè"ø). Điểm
đặc biệt của tiệm này là giới sinh viên học sinh là thân
chủ. Mỗi bàn đều có kính, dưới mặt kính (và cả trên
tường), chủ nhân cho chưng những bài thơ văn nghệ hiệu
đoàn (không cần biết hay dở) của các cô cậu thân chủ.
(11) "Lãng mạn" được định
nghĩa là "Phóng túng không bó buộc" trong "Hán Việt Từ Điển"
của Đào Duy Anh (trang 483). Theo thiêån ý, bởi thế, người
ta -nhất là một số quý cô- tưởng nhầm rằng bất cứ cái
gì "phóng túng, không bó buộc" cũng có thể gọi là lãng mạn
hết. Cũng theo thiển ý của người viết bài này, sự đi
quá hay phá bỏ những trói buộc đương thời về luân lý,
phong tục .không thể là những yếu tố duy nhất quyết định
sự lãng mạn được. Nói thế hóa ra những người thủy chung
hay nhất là những người quên mình đi để khỏi xúc phạm
vào gia đình, người hôn phối của người mình yêu -thay vì
cố tình chiếm đoạt chỉ để thỏa mãn cái lòng yêu tầm
thường, ích kỷ của chính mình- không phải là những người
lãng mạn à?! Những người trung thành với một mối tình
dù có cám dỗ hay chia lìa, những người kính trọng tình yêu
của người khác mới là những người lãng mạn, ở chỗ
không có gì bó buộc họ được trong cách suy nghĩ và hành
xử của họ. Họ sống ra ngoài vòng kiêàm tỏa của tình
cảm chính họ (tham sân si), là những cái thực sự trói buộc
con người nhiều nhất mà vẫn giữ được nguyên vẹn sự
đắm đuối. Lãng mạn càng không đồng nghĩa với sự vô
trách nhiệm. Bởi thế, một đời sống tình cảm sung mãn
bày tỏ qua văn chương càng không phải là cái lý do để người
ta cổ võ cho những sự tầm thường, ích kỷ ấy và tệ lậu
hơn, cổ võ mà nhân danh những cái to tát như văn chương nghệ
thuật.
(12) Riêng tôi, có lẽ tôi
phải cảm ơn hai-mươi-loại-ếch-văn-nghệ ấy: nếu không
có họ, tôi sẽ không- có- bài- này, viết- theo- kiểu- này,
gửi tới quý độc giả. Với những "hiện tượng" khôi hài
như thế mà phải viết sắt máu như Nguyễn Hưng Quốc hay
trầm trọng như Võ Đình thì vất vả cho tôi quá! |